Nguyễn Huy Thiệp: Cái nghiệp văn chương nó vận vào kinh lắm

(PLVN) - Một chiều mùa hạ, tôi cùng nhà thơ của “Phồn Sinh”, PGS. TS. Nguyễn Linh Khiếu đến thăm nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.  Nhà văn của “Tướng về hưu” nằm nghiêng, mặt hướng về phía trong. Hai chiếc quạt chạy đều đều. Nguyễn Linh Khiếu và tôi, ngồi bệt xuống bên nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Linh Khiếu, chỗ thân tình với nhà văn, ngồi bóp chân cho ông. Ông không may bị tai biến, từ đầu tháng 3/2020.

Đến thăm “Tướng về hưu”

Tôi vừa nghe chuyện nhà văn, vừa cố gắng “tua” lại các mảnh ghép còn nhớ, thời mới 26 tuổi. Thời mà, đời sống văn chương quá ư sống động. Thời mà, cứ đến ngày “ra báo”, không chỉ người yêu văn chương mà rộng rãi bạn đọc đều chờ đợi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên tờ Văn Nghệ, cơ quan của Hội Nhà văn Việt Nam.

Nhớ lại thời Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tuyên bố đổi mới, không dễ quên. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp hơn tôi 10 tuổi, lúc ấy ông 36 tuổi, tròn ba giáp. Phải đổi mới vì đời sống kinh tế xã hội 10 năm sau ngày giải phóng đất nước quá thê thảm, trăm thứ khổ. Sau đám tang người mẹ, năm 1987, Nguyễn Huy Thiệp ngồi viết truyện “Tướng về hưu”. Đám tang trong truyện y hệt đám tang mẹ ông, ông kể.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp 

Nguyễn Huy Thiệp gửi bản thảo cho báo Văn Nghệ khoảng tháng 4/1987. Biên tập viên bấy giờ là nhà văn Ngô Ngọc Bội nhận bản thảo. Báo Văn Nghệ in truyện này ngày 20/6/987 (gộp ba số 24, 25, 26 lại thành một số). Trong truyện, nhà văn Ngô Ngọc Bội sửa chữ “tếu” thành chứ “láo” trong câu thoại: “Cái Vy hỏi: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải không ông?”. Cha tôi chửi: “Mẹ mày! Láo!”.

Thời gian này, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sau thời gian dạy Bổ túc công nông ở miền núi Sơn La mới chuyển về Hà Nội, làm một nhân viên quèn ở Công ty Sách - Thiết bị trường học (Bộ Giáo dục, bây giờ là Bộ Giáo dục và Đào tạo). Khi đó ông chưa có tên tuổi gì ở trên văn đàn, chưa có tâm thế và sự cả gan để mắng câu thơ “đường ra trận mùa này đẹp lắm” của Phạm Tiến Duật là “láo” được (Phạm Tiến Duật cũng là thần tượng trong thời trẻ của thế hệ thanh niên hồi ấy).

Bản thảo truyện “Tướng về hưu” viết tay, sau này được họa sỹ Bùi Xuân Phái viết chữ sơn dầu trên bìa màu xanh, hiện lưu giữ trong bộ sưu tập của gia đình ông Phạm Văn Bổng, ở số nhà 93 Hàng Buồm, Hà Nội. Sau đó, “Tướng về hưu” xuất ngoại lập tức được in trên tạp chí Đoàn Kết số 395 tháng 10/1987 của Hội Người Việt Nam tại Pháp do Trần Hải Hạc và Bạch Thái Quốc chuyển đi, sau này được Kim Lefevre dịch và in trên tạp chí Les Temps Modernes số 512 tháng 3/1989 (tạp chí này do Jean-Paul Sartre và Simone De Beauvoir chủ trương).

35 năm đã qua, truyện “Tướng về hưu” được một số người coi là mốc đánh dấu mở đầu cho thời đổi mới văn học ở Việt Nam. Nói như lời mẹ Teresa, Nobel Hòa bình năm 1979 “Tôi chỉ là một cây viết trong tay Thượng đế”; truyện “Tướng về hưu” ngoài việc “cập thời vũ” (mưa đúng lúc), hợp về thời gian lịch sử, nó đã làm được hai việc rất quan trọng, đáng gọi là “đổi mới” ở trong văn học:

Về hình thức, đây là tác phẩm đặc sắc có tính chất “bạo động” về ngôn ngữ (khái niệm bạo động về ngôn ngữ được nhà văn Nguyễn Huy Thiệp dùng để chỉ chung cho cả một thế hệ nhà văn đổi mới cùng thời với ông). Trước đổi mới, văn học chỉ có một giọng điệu mà nhà văn Nguyễn Minh Châu gọi là “văn học minh họa”.

Về nội dung, đây là tác phẩm đặc sắc đưa được “đạo” vào nội dung tác phẩm văn học. “Đạo” đây nên hiểu là con đường tự nhiên, con đường thoát hiểm, con đường sống sót, con đường hi vọng. Nó là trăm ngàn sắc thái trong cuộc sống bình thường của con người ta như sinh, lão, bệnh, tử, ái, ố, hỉ, nộ, dục, ưu, lạc... Theo nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, dấu hiệu nhận biết đầu tiên của “đạo” là nụ cười, sau đó là những biểu hiện của tình yêu thương với lòng chẳng nỡ, tính nhân văn...

Lê Quý Đôn từng nói: “Văn chương có đạo thì thịnh, không như thế thì suy”. Văn học hướng về sự sống, “mang khuynh hướng lý tưởng và khuynh hướng duy tâm” (di chúc văn chương của Alfred Nobel) chứ không phải là văn chương vô thần, cổ vũ hoặc ngụy biện cho tinh thần thực dụng, bạo lực, cho chiến tranh, cho khủng bố (dù với tính chất gì đi nữa).

Trong mối tương quan với các truyện khác, “Tướng về hưu” chưa phải là truyện “đổi mới” triệt để của Nguyễn Huy Thiệp. Truyện vẫn còn có sự rào đón trước sau trong câu chuyện của “người kể chuyện”. “Đổi mới” dứt khoát trong tác phẩm của ông phải là truyện “Không có vua”, sau đó là“Con gái thủy thần”, “Những người thợ xẻ”, bộ ba truyện giả lịch sử “Kiếm sắc”, “Vàng lửa”, “Phẩm tiết”- (thực chất bộ ba truyện này là truyện bịa đặt lịch sử). 

Nguyễn Huy Thiệp cho rằng, đổi mới là thay cái cũ bằng cái mới, phù hợp với hoàn cảnh mới. Tất cả đều diễn ra trong “dịch”, trong dòng chảy lịch sử. Phản ứng lại kiểu gì với nó cũng chỉ là “chạy ngược trên chiếc thuyền xuôi”, không phải là phản ứng tích cực. Điều quan trọng là hòa nhập, đồng thuận được với hoàn cảnh.

Đổi mới có nhiều cách, nhiều “cảnh giới”. Theo Nguyễn Huy Thiệp, đầu tiên phải là phá vỡ cái cũ, giống như khoan cắt bêtông, giải phóng mặt bằng, rất khó chịu, thậm chí bất công và lộn xộn. Đổi mới với ý thức xây dựng một cơ sở mỹ học mới từ ngay trong thực tế nội tình văn học ở trong nước là điều quan trọng nhất. Nó hợp thời: “Tác hữu trần sa hữu/Vi không nhất thiết không” (Có thời có tự mảy may/Không thời cả thế gian này cũng không). Đó là điều mà các thế hệ nhà văn đổi mới trong gần 35 năm qua đã làm được. Không nên coi là sai - đúng, chỉ biết rằng nó đã diễn ra, nó sống, nó tồn tại.

“Văn học thật sự luôn hướng về chân - thiện - mỹ, luôn giữ gìn được bản sắc dân tộc và tìm đến sự hòa nhập trong thế giới văn minh”, quan niệm thánh thiện của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.

Trong câu chuyện chiều hè, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nói chuyện về trường ca “Phồn Sinh” của nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu mà ông đã kịp đọc trước khi bị tai biến; về Nguyễn Du, Xuân Diệu và cái “nghiệp” văn chương... và vùng đất Hà Tĩnh quê hương tôi, mà ông gọi là “ghê đấy”. 

Thật khó hình dung một nhà văn “kỳ tài” (cách gọi của nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu), người đã từng cùng với một số nhà văn khác tạo ra “hiện tượng”, “địa chấn” trong đời sống văn chương những năm sau đổi mới bây giờ lại nằm đó. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nằm nghiêng, co chân, khóe mắt bên phải của ông có vết thương vừa khô và bờ hốc mắt còn bị thâm đen. “Ông vừa bị ngã từ trên giường xuống đất”, bà Phan Thị Tự Trang- phu nhân nhà văn cho biết.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp  

Dù ốm vẫn mải mê về nghề viết

Kể từ sau khi bị tai biến, Nguyễn Huy Thiệp xọp đi. Gần 4 tháng qua ông bị sụt đến 10 kg, tức chỉ còn lại khoảng 45 kg. Theo chị Tự Trang, ăn vẫn ăn được, có điều đêm ông không ngủ được. Sau cú ngã sưng mặt cách đây vài hôm, gia đình đã không dám cho ông nằm trên giường. Với họa sỹ tài năng Nguyễn Phan Bách, con trai đầu của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thì sau công việc bề bộn dìu bố tập đi. Đêm lại canh giờ dậy lo cho bố mình đi tiểu.

Bước vào tuổi 70 trước khi bị tai biến, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã bị vô số thứ, phải uống thuốc tiểu đường, hoạt huyết dưỡng não.... Tính ra, mỗi ngày mất một triệu đồng tiền thuốc, trong khi lương hưu nhà văn chỉ gần hai triệu đồng một tháng. Rất may, đầu óc Nguyễn Huy Thiệp mẫn tiệp. Chỉ có tiếng nói là có lúc không tròn vành, rõ chữ. Ông nói mải mê về nghề viết.

“Cái nghiệp văn chương nó nặng lắm. Nguyễn Huy Thiệp cũng như nhiều anh, chị từng mắc bệnh kiêu ngạo, tinh vi... Văn chương không cần thế, lương tâm trong sáng mới cần. Các ông nên đọc thêm về Thiền học. Mình làm việc vô tâm, không suốt ruột mới xuất hiện điều kỳ diệu. Trời có mắt đấy, không đùa được”, ông nói.

Dẫu mệt, nhưng nói về nghề văn, Nguyễn Huy Thiệp say sưa. Nghề là do con người chọn, nghiệp là nó tìm đến mình. Trong tâm linh, con người phải qua bao nhiêu kiếp nạn mới thành người, hiện hữu trên cuộc đời. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rỉ rả thế, như trao trút tâm huyết. Ông kể chuyện Phật Thích ca, Chúa Giesu, những câu chuyện của các nhà hiền triết khác. “Hai ông phải hiểu kỹ về đạo đức nhé. “Đạo” là “con đường”; “đức” là “đức hạnh” - mục đích tìm kiếm trên con đường ấy. Phải giữ lương tâm mình mới thành công”, ông nói như căn dặn,

“Tôi đặt cái đẹp lên đầu gối, tôi thấy nó cay đắng quá và tôi nguyền rủa nó”, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhắc lại câu nói này và ông nhận xét “rất hay”. Đúng thế, cái đẹp phải được đặt trong tâm hồn, đi ra từ tâm hồn mới lay thức con người. Có thế mới thành công và tránh được “nghiệp” trong cuộc đời cũng như trên trang viết.