Quản lý doanh nghiệp đa cấp hay người bán hàng đa cấp?

(PLO) - Dự thảo Thông tư hướng dẫn về công nhận chương trình đào tạo và xác nhận kiến thức pháp luật về bán hàng đa cấp, nhằm quy định chi tiết thi hành Nghị định 40/2018/NĐ-CP ngày 12/3/2018 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, nhưng cộng đồng doanh nghiệp cho rằng các quy định trong dự thảo chưa đủ thống nhất, cụ thể, rõ ràng để đảm bảo để có thể thi hành được ngay khi ban hành.

Phân vân về tính pháp lý

Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 và khoản 1 Điều 5 Dự thảo thì việc thực hiện kiểm tra kiến thức pháp luật về bán hàng đa cấp cơ bản sẽ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng, Bộ Công Thương) thực hiện. Chỉ trong trường hợp “có nhu cầu thực tiễn” (suy đoán là nhu cầu cao, Cục không đảm đương được) thì cơ quan này mới chỉ định một/các đơn vị khác thực hiện việc này.

Theo các doanh nghiệp, cách tiếp cận này dường như cần xem xét lại, ít nhất ở hai khía cạnh. Thứ nhất, về việc cơ quan Nhà nước trực tiếp thực hiện việc kiểm tra, về mặt pháp lý, các nhân viên bán hàng đa cấp thực hiện các công việc liên quan đến bán hàng đa cấp hoạt động với tư cách nhân viên của doanh nghiệp, không phải với tư cách cá nhân. Do đó, trong các mối quan hệ bán hàng đa cấp, doanh nghiệp sẽ là chủ thể chịu trách nhiệm chứ không phải là cá nhân nhân viên bán hàng đa cấp. Như vậy, về mặt nguyên tắc thì điều mà Nhà nước cần kiểm soát là việc doanh nghiệp bán hàng đa cấp có thực hiện đào tạo kiến thức đầy đủ, chính xác cho nhân viên của mình không chứ không phải việc Nhà nước (hoặc đơn vị được chỉ định) trực tiếp kiểm soát kiến thức pháp luật của người tham gia bán hàng đa cấp.

Tuy nhiên, do Nghị định 16 quy định về việc cơ quan Nhà nước xác nhận kiến thức này, Thông tư không được quy định trái, nhưng các quy định tại Thông tư nên thiết kế theo hướng đơn giản, thuận lợi, theo đúng hướng là “xác nhận” chứ không phải trực tiếp kiểm tra. Ví dụ, doanh nghiệp tự đào tạo và kiểm tra kiến thức cho người tham gia bán hàng đa cấp và trên cơ sở kết quả kiểm tra của doanh nghiệp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ cấp giấy xác nhận.

Thứ hai, về thủ tục chỉ định đơn vị kiểm tra, Điều 5 Dự thảo quy định về các tiêu chí để cơ quan nhà nước chỉ định, kèm theo đó là trình tự, thủ tục chỉ định. Có thể thấy quy trình này được thiết kế tương tự như một quy trình cấp phép kinh doanh (doanh nghiệp muốn được chỉ định, tức là muốn thực hiện dịch vụ này, phải nộp hồ sơ, đáp ứng đủ các tiêu chí, cơ quan nhà nước sẽ xem xét hồ sơ và ban hành quyết định chỉ định; khi có quyết định chỉ định thì doanh nghiệp mới được thực hiện tổ chức kiểm tra). 

Theo quy định tại Điều 7 Luật Đầu tư 2014 thì văn bản cấp Bộ không được quy định về điều kiện kinh doanh. Hơn nữa, việc tổ chức kiểm tra kiến thức pháp luật về bán hàng đa cấp cũng không thuộc ngành, nghề kinh doanh có điều kiện (trong Phụ lục ngành nghề kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư). 

Vì vậy, quy định tại Điều 5 Dự thảo là chưa phù hợp về tính pháp lý. “Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc điều chỉnh lại thủ tục này theo hướng: doanh nghiệp có quyền tự tổ chức đào tạo, kiểm tra kiến thực pháp luật về bán hàng đa cấp của nhân viên mình, Cơ quan Nhà nước chỉ cấp xác nhận trên cơ sở kết quả đào tạo, kiểm tra của doanh nghiệp” – văn bản của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI gửi Bộ Công Thương đề xuất.

Quy định chung chung, thiếu rõ ràng

Kể cả trong trường hợp không đề cập tới tính pháp lý của quy định trên, thì quy định đó còn chưa rõ ràng, cụ thể.

Khoản 1 Điều 5 Dự thảo quy định về tiêu chí để cơ quan nhà nước chỉ định đơn vị tổ chức kiểm tra, tuy nhiên các tiêu chí này rất chung chung, ví dụ: Có chức năng, kinh nghiệm phù hợp; Có phương án, quy chế phù hợp để thực hiện các đợt kiểm tra; Có ngân hàng câu hỏi phù hợp. “Không rõ như thế nào được cho là phù hợp? Việc thiếu rõ ràng trong các tiêu chí xem xét có thể tạo ra sự tùy tiện hoặc trao quá nhiều quyền cho cơ quan nhà nước trong việc lựa chọn đơn vị chỉ định tổ chức kiểm tra” – cộng đồng doanh nghiệp hoài nghi.

Về hồ sơ đăng ký tổ chức kiểm tra, điểm a khoản 2 Điều 5 Dự thảo quy định trong hồ sơ đăng ký kiểm tra, doanh nghiệp phải nộp “Bản sao được chứng thực Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thể hiện cơ sở có chức năng phù hợp”. Quy định này là chưa phù hợp với Luật Doanh nghiệp 2014 vì Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hiện không còn ghi ngành, nghề đăng ký kinh doanh.

Ngoài ra, để giám sát hoạt động của các đơn vị tổ chức kiểm tra, điểm a khoản 4 Điều 5 Dự thảo quy định “Trường hợp cần thiết, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng tiến hành kiểm tra hoạt động của đơn vị tổ chức kiểm tra”. “Trường hợp cần thiết” là quy định chưa rõ ràng, có thể tạo ra sự tùy nghi trong quyết định kiểm tra của cơ quan nhà nước, gây khó khăn cho doanh nghiệp. 

Đọc thêm