Hà Nội xưa trong “Thăng Long Kinh Kì - Kẻ Chợ” Chất Kinh Kì

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Nhân Ngày Sách Việt Nam (21/4), Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành 2 cuốn sách lịch sử dài hơn 300 trang có tên “Thăng Long Kinh Kì - Kẻ Chợ” của 2 tác giả Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Quốc Tín về mảnh đất Thăng Long từ thời Lê - Trịnh sang thời Tây Sơn và nhà Nguyễn.
Hà Nội xưa trong “Thăng Long Kinh Kì - Kẻ Chợ” Chất Kinh Kì

Trong sách viết: “Chúa Trịnh Tùng xây dựng lại cả một kinh kì bên ngoài Hoàng Thành cũ, trong đó có biệt phủ cho mình (và các đời chúa về sau). Thăng Long vốn là một thành phố nhiều sông hồ nên việc san lấp, cải tạo mặt bằng của kinh thành tốn nhiều thời gian, công sức. Nào là đắp một con đường lớn, lát đá cắt hồ Lục Thủy thành hai hồ riêng biệt: Hồ Tả Vọng được gọi là hồ Hoàn Kiếm và hồ Hữu Vọng gọi là hồ Thủ Quân. Nào là cắt một phần hồ Tây tạo ra hồ Trúc Bạch, bằng cách đắp con đê Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên) thẳng tắp.

Chúa rất quan tâm đến hệ thống sông ngòi ở nội đô. Thăng Long đã có sông Hồng và sông Đuống tỏa đi các tỉnh và ra biển. Chúa còn muốn biến mấy con sông nội đô như Kim Ngưu và Tô Lịch kết nối với các hồ, nhằm tạo ra một mạng giao thông thủy để đi lại trong kinh thành. Điều này rất đắc dụng vì có sông là có bến, có bến là có chợ và chúng đã góp phần tạo ra rất nhiều chợ cho Đông Kinh sau này.

Đồng thời, Chúa Trịnh Tùng cho phá hết thành lũy và san bằng địa hình với nhiều mục đích: Xây một vương phủ riêng ngoài Hoàng thành; sắp xếp lại kinh đô hoàn toàn mới, khỏi phải chắp vá, phát triển Đông Kinh về phía đông nam kinh thành… Sau đó tiến hành trung tu các công trình từ xưa, mang tính lễ nghi, như Văn Miếu, đàn tế Nam Giao…

Công việc xây dựng kinh đô kéo dài trong suốt 200 năm. Lực lượng nhân công điều động rất lớn và chọn toàn thợ khéo từ khắp nước, mang lại cho khu vương phủ (còn gọi là Phủ Chúa) một diện mạo riêng. Yếu tố “mở” của kinh thành – việc đi lại và sinh hoạt tự do đã tạo ra cách sống và làm ăn linh hoạt, phóng khoáng hơn thời trước. 

Khu vực vua chúa, giới bình dân và các tầng lớp xã hội, kể cả dân buôn bán, chợ búa không còn sự chia cách. Các trung tâm buôn bán và các cơ sở sản xuất mọc lên, nhộn nhịp và sầm uất ngay trong khu vực sinh sống của các tầng lớp quan lại. Những cộng đồng dân chúng do cùng nghề nghiệp hoặc tương tự nhau về nguồn nguyên liệu, mặt hàng sẽ tự tìm đến nhau mà tụ hội, kiểu “buôn có bạn, bán có phường”. 

Thăng Long - Hà Nội bước vào triều đại đặc biệt: vừa có vua, vừa có chúa. Không chỉ là trung tâm chính trị và văn hóa, Thăng Long giờ đây còn là trung tâm kinh tế của đất nước, nơi tập trung 30 ngành sản xuất thủ công và là đầu mối thương nghiệp của cả nước, kể cả các nước phương Tây lớn như: Hà Lan, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha…

Giáo sư Alexandre de Rhodes đã phải trầm trồ khẳng định về đô thị mở sầm uất và hoành tráng bậc nhất khi ấy, nơi “kinh đô có tới hai vạn nóc nhà, các đường phố chính đều rộng rãi… có ba đường phố dài tới ba dặm”, là “Thành phố lộng lẫy ngang hoặc hơn so với Venise”.

Còn Giáo sư Juliano Baldinotti - người phương Tây đầu tiên đến Đông Kinh năm 1626 thốt lên: “Đông Kinh không có thành trì, hào lũy và các cơ quan phòng thủ mà giống như một đô thị mở ở châu Âu, điều hiếm thấy ở châu Á vào thời điểm đó. Cung điện lợp ngói, tưởng xây đá to, chạm trổ đẹp. Chu vi 5,6 dặm, dân cư đông đúc nằm trên một con sông rộng, ăn ra biển cách 18 dặm”.

“Chất” Kẻ Chợ

Cách gọi Kẻ Chợ chỉ để đất và người Thăng Long cũng là từ những hình dung sơ phác về đô thị thời này. Như cách tác giả giới thiệu: “Thời Lê Trung Hưng, Đông Kinh còn có tên là Kẻ Chợ. Ban đầu tên gọi này dành chỉ để khu vực buôn bán, sản xuất, gắn với đời sống dân sinh. Dần dần, người ta gọi chung cả kinh đô (Hoàng Thành và phủ Chúa) và Kẻ Chợ hoặc Thăng Long - Kẻ Chợ để phân biệt với Thăng Long của các triều đại Lý, Trần”.

Sang thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nhiều cái sẽ khác đi, nhưng cái cốt cách dung nạp của người và đất Thăng Long - Hà Nội thì vẫn vậy. Và nếu như cái tên mới Hà Nội do nhà Nguyễn đặt ra, ban đầu khó được người dân chấp nhận thì người ta vẫn quen gọi Thăng Long bằng cái tên nôm na Kẻ Chợ thuở nào.

Tác giả Nguyễn Quốc Tín chia sẻ: “Thiết nghĩ, đây không chỉ do thói quen, mà còn bởi “chất” Kẻ Chợ thực sự đã hình thành, hiện hữu ở người Thăng Long - Hà Nội mà người ta không thể gọi theo cách nào khác. Nhưng cụ thể nó ra sao, gắn với lịch sử Hà Nội như thế nào, được biểu hiện qua những khía cạnh nào của đời sống xã hội và dân sinh hay với tư cách một quần thể được gọi là phố phường thì Kẻ Chợ hiện diện ra sao…? Đó chính là những câu hỏi luôn được đặt ra với những ai yêu Hà Nội và cũng là đều chúng tôi mong muốn được nói tới bộ sách này”.

Nhà văn, nhà khảo cứu văn hóa Hà Nội Nguyễn Trương Quý cho biết anh đánh giá cao cuốn sách này ở góc nhìn rất cởi mở về lịch sử, viết về những nhân vật lịch sử không đơn giản, một chiều mà phản ánh thú vị, sinh động, có những mặt sáng, mặt tối. Ví dụ như các Chúa Trịnh trong cuốn sách này được phác họa tuy chuyên quyền với các Vua Lê, tàn bạo với những người khác ý họ nhưng mặt khác họ cũng thúc đẩy sự phát triển kinh tế bằng cách mở cửa đón các thương nhân nước ngoài, mở các thương điếm ở Hà Nội…

Ở Thời Lê - Trịnh, bên cạnh những trang tái hiện lịch sử hỗn loạn thời “lưỡng đầu chế”, một Thăng Long điêu tàn, những vị vua không ngai – tham vọng mà nhu nhược, người đọc được đón nhận những ghi chép tươi mới, đầy chất thơ và phong vị về một vùng đất Kinh Kì - Kẻ Chợ hào hoa, hội tụ nhiều nét đẹp, trong cả dân gian lẫn nghệ thuật thời trung đại. Từ kiến trúc phủ chúa, danh thắng quanh Hà Nội, đến lịch sử các ngành nghề thủ công của 36 phố phường… Tất thảy tạo nên bức tranh đa màu, nhiều cung bậc.

Đến thời Tây Sơn, nhà Nguyễn, Thăng Long mang một diện mạo mới. Qua áng văn chương và chứng cứ lịch sử với tên mới Hà Nội do nhà Nguyễn đặt ra, người ta vẫn quen gọi nôm na Kẻ Chợ thuở nào. “Chất Kinh Kỳ” và “Chất Kẻ Chợ” vẫn như một nét son của đô thị lộng lẫy, vừa trang nghiêm, vừa dân dã, nhất là giàu có văn hóa truyền thống. Ta có thể bắt gặp những áng văn nho nhã, viết về đường thuyền Kẻ Chợ, nhiều đoạn mô tả thú vị về sông, lạch, hồ quanh Thăng Long. Hay vai trò của Vua Minh Mạng với Thăng Long, các di tích chùa Báo Ân, đền Ngọc Sơn… còn mãi trong ký ức một thời.

Lối viết ngắn ngọn, ưu tiên đặc tả những sự kiện hoặc nhân vật lịch sử gắn với Thăng Long trong giai đoạn từ thế kỷ XVI đầu thế kỷ XIX, đi kèm với những bình luận hóm hỉnh, cuốn sách đã làm sáng tỏ ý tưởng, chủ đề. Đó là phục hưng bức tranh Hà Nội xưa với chất Kẻ Chợ sống động, gắn với lịch sử, phát huy các khía cạnh đời sống xã hội và dân sinh hay trong tư cách quần thể phố - phường. 

“Thăng Long Kinh Kì - Kẻ Chợ” – bộ sách phác họa bức tranh sống động về văn hóa, phong tục, lịch sử, con người Hà Nội xưa trước biến thiên thời cuộc.