Thúc đẩy phát triển thị trường khí LNG

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Nhập khẩu, phân phối khí LNG đang là yêu cầu cấp thiết tại Việt Nam trong bối cảnh nguồn khí nội địa suy giảm còn nhu cầu về khí để cung cấp cho nền công nghiệp và phát điện ngày một tăng.
Hệ thống kho cảng PV GAS Vũng Tàu
Hệ thống kho cảng PV GAS Vũng Tàu

Nhiệt điện LNG theo quy hoạch điện VIII

Quy hoạch điện VIII xác định đến 2030, nguồn nhiệt điện khí chiếm tỷ trọng khoảng trên 24% tổng công suất toàn hệ thống phát điện, trong đó riêng nhiệt điện khí LNG chiếm 14,9%. Theo dự báo, những năm sắp tới nguồn cung khí nội địa sẽ suy giảm, các mỏ khí mới được đưa vào vẫn chưa đủ bù đắp lượng khí thiếu hụt. Do đó, việc nhập khẩu LNG để bổ sung, đáp ứng nhu cầu trong nước là xu hướng tất yếu và cấp thiết.

Để nhập khẩu khí LNG, cần xây dựng hạ tầng kho cảng LNG mới, hiện đại, theo tiêu chuẩn quốc tế, tại các vị trí chiến lược, đủ khả năng tiếp nhận tàu chở LNG có kích thước lớn. Đồng thời xây dựng hệ thống tồn trữ và phân phối LNG tại các khu vực tiêu thụ, bao gồm việc xây dựng kho chứa LNG quy mô nhỏ, đội tàu, xe chuyên dụng cho vận chuyển LNG, trạm phân phối và hệ thống tái hóa khí để cung cấp khí LNG cho các khách hàng điện, khu công nghiệp cũng như hộ tiêu thụ khác.

Quy hoạch điện VIII cũng xác định đến năm 2030 sẽ xây mới 13 nhà máy điện khí LNG có tổng công suất 22.400 MW, đến năm 2035 có thêm 2 nhà máy với công suất 3.000 MW. Việc xác định địa điểm xây dựng các nhà máy này căn cứ theo nhu cầu, cân đối nội vùng ở khu vực phía Bắc, Bắc Trung Bộ và khu vực phía Nam.

Việc phân bổ này khiến nhiều chuyên gia lo ngại các nhà đầu tư nhà máy điện khí LNG sẽ đầu tư kho cảng nhập LNG riêng lẻ, phân tán theo kiểu có bao nhiêu nhà máy điện thì sẽ xuất hiện bấy nhiêu kho cảng nhập. Việc phát triển riêng lẻ các kho cảng LNG với quy mô công suất nhỏ đi kèm với từng nhà máy điện khí có thể sẽ làm tăng suất đầu tư, vô hình trung khiến giá điện cao hơn do phải “gánh” chi phí đầu tư hạ tầng LNG.

Theo đại diện Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV GAS), trên cơ sở quy hoạch địa điểm các nhà máy điện khí LNG theo Quy hoạch điện VIII và nhu cầu nhập khẩu LNG (dự báo đến năm 2030 sẽ nhập khẩu 14,46 triệu tấn LNG/năm, đến năm 2035 nhập khẩu tăng thêm 1,92 triệu tấn LNG/năm), PV GAS đã nghiên cứu và cho rằng, để thúc đẩy sự phát triển bền vững thì hệ thống hạ tầng điện khí LNG của Việt Nam cần được phát triển theo mô hình kho LNG trung tâm. Nghĩa là xây các kho LNG công suất lớn, rồi phân phối đến các hộ tiêu thụ thông qua hệ thống đường ống. Các nhà máy điện khí LNG sẽ đấu nối đường ống để nhận khí từ đường ống trục.

Với mô hình này dự kiến chỉ cần 3 kho cảng LNG trung tâm công suất từ 3-6 triệu tấn/năm/kho (có khả năng nâng công suất lên 10 triệu tấn/năm để dự phòng mở rộng), đặt tại 3 khu vực chính là: Khu vực Thị Vải, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Khu vực Sơn Mỹ tỉnh Bình Thuận và Khu vực phía Bắc/Bắc Trung Bộ. Hiện nay dự án kho cảng LNG Thị Vải đã sẵn sàng cho công tác chạy thử để đưa vào vận hành chính thức. Kho cảng LNG Sơn Mỹ đang trong giai đoạn hoàn thiện các thủ tục chuẩn bị để triển khai đầu tư.

“Nhà nước nên giao cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV GAS) để xây dựng các kho cảng còn lại vì đây là những đơn vị có kinh nghiệm và tiềm lực tài chính”, một chuyên gia trong lĩnh vực gợi ý.

Kho chứa LNG Thị Vải với công nghệ hiện đại, được kết nối với hạ tầng cấp khí hiện hữu của PV GAS sẽ tăng công suất tồn chứa, đáp ứng mục tiêu phát triển ổn định, tăng thế mạnh cạnh tranh LNG của PV GAS.

Kho chứa LNG Thị Vải với công nghệ hiện đại, được kết nối với hạ tầng cấp khí hiện hữu của PV GAS sẽ tăng công suất tồn chứa, đáp ứng mục tiêu phát triển ổn định, tăng thế mạnh cạnh tranh LNG của PV GAS.

Giá LNG sẽ cạnh tranh tốt

Theo các chuyên gia năng lượng, giá LNG tại thị trường Việt Nam được định giá dưới tác động ảnh hưởng bởi hai yếu tố chính. Thứ nhất là giá nhập khẩu LNG từ thị trường thế giới về đến Việt Nam và chi phí tiếp nhận, tồn trữ, tái hóa, phân phối.

Thứ hai là giá nhiên liệu cạnh tranh hoặc tổng giá trị cạnh tranh tương đương. Cụ thể với nguồn LNG cung cấp cho các khách hàng công nghiệp thì sẽ cạnh tranh với xăng, dầu, nhiên liệu sinh học... Điều này sẽ ảnh hưởng đến giá LNG cung cấp cho các khách hàng. Đối với LNG cung cấp cho các nhà máy điện thì giá điện từ các nguồn nhiên liệu sơ cấp khác, cân đối hệ thống điện, sản lượng điện tối thiểu được phát trên hệ thống, cơ chế chấp nhận giá điện trên thị trường phát điện cạnh tranh,... sẽ ảnh hưởng đến giá LNG.

LNG cung cấp cho khách hàng công nghiệp trên thế giới cho thấy, LNG cạnh tranh tốt với các dạng nhiên liệu lỏng như xăng, dầu diesel. Tại Việt Nam, LNG là nguồn nhiên liệu mới nên việc hỗ trợ quá trình hoàn thiện cơ sở hạ tầng LNG nhập khẩu đầu tiên tại Thị Vải ở Việt Nam sẽ làm giảm chi phí phân phối, giúp giá LNG đạt lợi thế cạnh tranh.

Đối với LNG cung cấp cho khách hàng điện, PV GAS cho rằng cần có hướng dẫn cụ thể phương pháp xác định giá phát điện từ nguồn LNG. Điều này sẽ bảo đảm việc bao tiêu LNG trong ngắn hạn và dài hạn, giúp đảm bảo ổn định nguồn cung LNG cho ngành điện.

Đọc thêm