Một năm sửa chưa tới… 1.000 km đường
Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể đến tham dự Hội nghị tổng kết đơn vị này hôm 3/1, cho rằng TCĐBVN đang quản lý khối lượng tài sản khổng lồ của nhà nước, từ hệ thống đường quốc lộ, đường cao tốc đến hệ thống cầu, cống. “Phải làm sao để quản lý tốt, duy tu bảo dưỡng tốt để phục vụ nhu cầu đi lại và phát triển kinh tế của người dân?”, ông Thể lưu ý Tổng cục.
Cũng theo lãnh đạo Bộ GTVT, hệ thống đường quốc lộ, đường cao tốc được ví như mạch máu trong cơ thể nền kinh tế đất nước. Do đó, hệ thống “mạch máu” này cần được tổ chức tốt, vận hành tốt thì mới thúc đẩy nền kinh tế cả nước đi lên. “Nhiệm vụ của Tổng cục là rất nặng nề nhưng vinh quang”, lãnh đạo Bộ GTVT lưu ý.
Theo ông Thể, hiện nay cả nước còn hơn 16.000km đường bộ quá hạn trung, đại tu; tức còn rất nhiều đường đang xuống cấp, cần được đầu tư, sửa sang. Do đó, các đơn vị chuyên môn của Tổng cục phải tích cực hơn trong đánh giá thực trạng các con đường này, đề xuất, báo cáo Chính phủ bố trí kinh phí sửa chữa, để mỗi đoạn đường đi không trở thành “cung đường ám ảnh” với người dân đi lại.
Liên quan đến nội dung này, theo ông Nguyễn Xuân Cường, Phó Tổng cục trưởng TCĐBVN, mỗi năm đơn vị này thường xuyên bảo dưỡng hơn 21.400km đường quốc lộ và đường cao tốc. Năm qua, khối lượng sửa chữa tập trung được trên 6,35 triệu m2 (tương đương hơn 908km đường cấp III). Ngoài ra, sửa được 299 cầu và nhiều hạng mục khác.
Tuy nhiên, lãnh đạo Tổng cục thừa nhận trong số hơn 21.000km quốc lộ đang bảo trì bằng Quỹ Bảo trì trung ương, hiện có 10.773km quá thời hạn trung tu, 5.123km quá thời hạn đại tu. Trong số 6.255 cầu trên hệ thống quốc lộ, còn khoảng trên 400 cầu yếu, cầu hẹp cần nâng cấp.
Theo đánh giá của Tổng cục Đường bộ, vùng đồng bằng Sông Cửu Long có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, nhu cầu vận tải đường bộ lớn và ngày càng tăng nhưng tỷ lệ mặt đường bê tông nhựa là 43%, thấp nhất cả nước. Đường láng nhựa chiếm 49,2%, còn lại là kết cấu khác. “Cần dịch chuyển cơ cấu đầu tư và nguồn lực bảo trì cho khu vực này trong thời gian tới, nếu không sẽ ảnh hưởng lớn đến GTVT”, ông Cường nhấn mạnh.
Với khu vực Trung du và miền núi phía Bắc, có 86% đường cấp IV, V và VI. Thời gian tới, khu vực này cần cải tạo cấp hạng kỹ thuật, xử lý các bán kính nhỏ, nhất là các tuyến đường cấp V, VI, mặt đường rộng 3,5m không đủ xe tránh và vượt.
Ở miền Trung và Tây Nguyên có tới 64% là đường cấp IV trở xuống, nên cần cải tạo các đường nhỏ, hẹp, bán kính cong hạn chế. Khu vực đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ thì hệ thống giao thông phát triển hơn. Hai khu vực này tới đây sẽ trú trọng xây dựng các tuyến cao tốc, đường đô thị để giảm ùn tắc.
|
Tổng cục trưởng ĐBVN Nguyễn Văn Huyện cho hay, năm 2019, mới có thể hoàn thành thu phí tự động không dừng trên QL1 và QL14 |
Chưa thu phí tự động chưa minh bạch BOT
Lãnh đạo Tổng cục Đường bộ thừa nhận, việc triển khai hệ thống thu phí dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức điện tử tự động không dừng còn chậm so với yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ (vận hành các trạm thu phí đường bộ trên QL1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên (QL14) trước ngày 31/12/2018). Theo lý giải của Tổng cục, nguyên nhân việc chậm trễ này là do năng lực tài chính của các nhà cung cấp dịch vụ còn yếu; việc phối hợp của các nhà đầu tư BOT chưa cao.
Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Huyện cho biết, việc thực hiện thu phí không dừng đang được các đơn vị nỗ lực thực hiện và sẽ hoàn thành trong năm 2019.
Ngoài ra, bấp cập tại một số Dự án BOT đang là vấn đề được dư luận đặc biệt quan tâm. Thời gian gần đây, người dân đã phản đối nhiều trạm thu phí có dấu hiệu “nhầm chỗ”, như BOT Bắc Thăng Long - Nội Bài; BOT Quốc lộ 18 thuộc dự án Bắc Ninh - Uông Bí; BOT Tân Đệ (Thái Bình); BOT Mỹ Lộc (Nam Định)… Tuy nhiên, trong buổi tổng kết công tác năm 2018 và định hướng hoạt động của TCĐBVN 2019 - dường như không đề cấp sâu tới vấn đề này? TCĐBVN chỉ nêu ngắn gọn là sẽ tiếp tục quản lý các Dự án BOT, xử lý các bất cập tại các trạm thu phí bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng dịch vụ.
Năm 2018, giải ngân hơn 3.000 tỷ đồng
Theo TCĐBVN, hiện nay đơn vị đang quản lý 33 dự án, công trình, gồm 8 dự án xây dựng cơ bản và 25 dự án bảo trì. Trong năm 2018, đơn vị này đã giải ngân cho các dự án tổng giá trị là là 3093,3 tỷ đồng.