Tổ chức đưa người Trung Quốc nhập cảnh trái phép bị phạt bao nhiêu năm tù?

(PLVN) - Luật sư Nguyễn Đức Hùng - Phó Giám Đốc, Hãng Luật TGS (Đoàn Luật sư TP.Hà Nội) - đánh giá mức độ nghiêm trọng của việc đưa người Trung Quốc vượt biên trái phép vào Việt Nam trong khi dịch bệnh COVID-19  đang có diễn biến phức tạp.
Các đối tượng người Trung Quốc vượt biên trái phép bị lực lượng chức năng Lào Cai bắt giữ ngày 27/7.

Đưa trái phép người nước ngoài vào Việt Nam trong , có thể khởi tố tội gì?

Liên tiếp những ngày gần đây, cơ quan công an đã bắt được rất nhiều nhóm người đưa người nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Việt Nam. Hiện nước ta đã xuất hiện ca nhiễm COVID-19  mới trong cộng đồng.

Trong lúc nước ta đang bước vào giai đoạn 2 phòng chống dịch bệnh COVID-19, nguy cơ xâm nhiễm dịch bệnh từ bên ngoài là rất cao, hành vi tổ chức đưa người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt Nam đã và đang là mối nguy hại cho những nỗ lực phòng dịch mà cả nước đã đạt được trong suốt thời gian qua. Các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần vào cuộc một cách khẩn trương, quyết liệt để khởi tố, điều tra đường dây đưa người bất hợp để xử lý nghiêm theo quy định pháp luật.

Theo Luật sư Nguyễn Đức Hùng, để xử lý nhóm người này, cần khởi tố “Tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép” theo Điều 348 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù giam.

Dịch bệnh COVID-19  là đại dịch toàn cầu, làm hơn nửa triệu người chết, truyền nhiễm cho nhiều người mà hiện nay chưa có vắc-xin phòng bệnh. Do vậy, với những người tổ chức cho người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt Nam và làm lây truyền dịch bệnh thì cần thiết phải áp dụng tình tiết tăng nặng hình phạt theo điểm l Khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là lợi dụng tình trạng dịch bệnh để phạm tội.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm theo quy định tại khoản 4 Điều 348 BLHS.

Dịch bệnh COVID-19  là đại dịch toàn cầu, làm hơn nửa triệu người chết, truyền nhiễm cho nhiều người mà hiện nay chưa có vắc-xin phòng bệnh. Do vậy, với những người tổ chức cho người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt Nam và làm lây truyền dịch bệnh thì cần thiết phải áp dụng tình tiết tăng nặng hình phạt theo điểm l Khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là lợi dụng tình trạng dịch bệnh để phạm tội.

Trong trường hợp cơ quan chức năng truy xét ra được nguồn gốc lây lan dịch bệnh do những đối tượng tổ chức, môi giới cho người khác nhập cảnh trái phép vào Việt Nam gây ra thì còn bị truy tố theo quy định tại Điều 240 - Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người :

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

b) Đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người;

c) Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế;

b) Làm chết người.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 12 năm:

a) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;

b) Làm chết 02 người trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Người Trung Quốc nhập cảnh trái phép có thể bị xử lý như thế nào?

Luật sư Hùng cho biết thêm, đối với hành vi xuất cảnh, nhập cảnh trái phép thì tùy theo quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 17 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực An ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng; chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng; chống bạo lực gia đình. Theo đó đối với hành vi “Qua lại biên giới quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định” thì sẽ bị “Phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 5 triệu đồng”. Ngoài việc bị xử phạt vi phạm hành chính thì “tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước CHXHCN Việt Nam”.

Trường hợp “Người nào xuất cảnh, nhập cảnh trái phép hoặc ở lại Việt Nam trái phép, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” thì theo quy định tại Điều 347 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì người đó có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải đối mặt với hình phạt là “bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Ngoài ra người chưa bị xác định mắc bệnh COVID-19  nhưng sống trong khu vực đã có quyết định cách ly, quyết định phong tỏa nhưng từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly thì có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 295 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Theo đó hành vi “vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người” theo đó tùy theo tính chất mức độ cũng như hậu quả của hành vi gây ra mà người phạm tội có thể sẽ bị phải đối mặt với các khung hình phạt củ thể như: “phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” hoặc “bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm” hoặc “bị phạt tù từ 06 năm đến 12 năm”.

Ngoài hình phạt chính thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

Để ngăn chặn tình trạng nhập cảnh trái phép, có thể tăng nặng mức xử phạt để răn đe hay không?  Luật sư Nguyễn Đức Hùng cho rằng: "Hiện nay, một trong những nguyên nhân khiến tình trạng nhập cảnh trái phép diễn ra nhiều ở nước ta đó là do chế tài xử phạt chưa thật sự cứng rắn để răn đe đối với hành vi xuất cảnh, nhập cảnh trái phép. Việc chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính đối với những người vi phạm lần đầu về hành vi “Qua lại biên giới quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định” mà chưa bị xử lý hình sự thì chưa tạo được sự răn đe. Nhiều người sẽ nghĩ là thực hiện một lần thôi thì sẽ không sao cả, cùng lắm chỉ bị phạt tiền."

"Chính vì thế, cần phải có những quy định cứng rắn cũng như rõ ràng hơn, quyết liệt hơn để ngăn chặn tình trạng vượt biên trái phép., đặc biệt khi diễn biến dịch bệnh COVID-19  đang rất phức tạp và nguy hiểm tình trạng vượt biên trái phép này có thể dẫn đến lây lan dịch bệnh trong cộng đồng mà không thể nắm được nguồn gốc ở đâu" - Luật sư Hùng nói.

Hành vi bao che, tiếp tay cho người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam sẽ phải bị xử lý nghiêm khắc. 

Căn cứ theo Điều 17 Nghị định 167/2013/NĐ- CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tư, an toàn, xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình thì hành vi bao che, tiếp tay cho người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam sẽ bị phạt hành chính từ 15 triệu đồng đến 25 triệu đồng.

Nếu là người nước ngoài thì tùy theo mức độ có thể sẽ bị trục xuất khỏi Việt Nam. Bên cạnh xử phạt hành chính, hành vi bao che, tiếp tay cho người nhập cảnh trái phép sẽ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể là theo Điều 348 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Mức phạt từ 01 năm đến 15 năm tù tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng hoặc cấm đảm nhận chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Trường hợp trong quá trình điều tra nếu phát hiện có hành vi của cán bộ có quyền hạn trong việc giám sát khu vực biên giới nhận hối để tiếp tay cho hành vi xuất cảnh, nhập cảnh trái phép thì người thực hiện hành vi có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội nhận hối lộ” theo quy định tại Điều 354 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đọc thêm