Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, chiều 20/6, thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Về sự cần thiết ban hành Nghị quyết, theo Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đặt ra yêu cầu “tập trung hoàn thiện pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp thời khó khăn vướng mắc, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Ngày 30/4/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, đặt ra mục tiêu: “Năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những “điểm nghẽn” do quy định pháp luật”. Trên thực tế từ nay đến cuối năm chỉ còn 6 tháng.
Tại Thông báo số 05 ngày 11/6/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật, đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo đã chỉ đạo: (1) Tập trung rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, nhất là những quy định có mâu thuẫn, chồng chéo, các quy định bất hợp lý, không khả thi, quy định không rõ ràng, tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau trong hệ thống pháp luật; (2) Báo cáo Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết của Quốc hội về xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật vào đợt 2, Kỳ họp thứ 9.
Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Chính phủ đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, tuy nhiên, chỉ giới hạn trong phạm vi thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Đối với các vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết, pháp lệnh thì vẫn cần trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nên nhiều trường hợp còn chưa kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu rất khẩn trương của tình hình thực tế, nhất là trong bối cảnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong năm nay là 8% để tạo đà cho tăng trưởng “2 con số” trong các năm tiếp theo... Do vậy, việc xây dựng, trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật là rất cần thiết.
Về mục tiêu ban hành, Bộ trưởng Bộ Tư pháp nhấn mạnh, việc ban hành Nghị quyết nhằm tạo cơ sở pháp lý để kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật trong các lĩnh vực, kịp thời khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế, từng bước đưa pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh theo định hướng nêu trong Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị.
![]() |
Quang cảnh phiên họp chiều 20/6. (Ảnh: Cổng TTĐTQH) |
Về quan điểm xây dựng dự thảo Nghị quyết, Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh cho biết, thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương của Đảng trong việc xử lý những khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật; xây dựng quy trình đặc biệt để xử lý ngay một số vướng mắc, bất cập trong các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật có tính cấp bách; bảo đảm kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quá trình xử lý các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Chia sẻ quá trình xây dựng dự thảo Nghị quyết, Bộ trưởng cho hay, mặc dù hồ sơ Nghị quyết mới trình Quốc hội, song trên thực tế, Bộ Tư pháp đã cùng với Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội chủ động thực hiện các công việc để xây dựng Nghị quyết này từ cách đây khoảng 2 tháng; đã thành lập Tổ soạn thảo, tổ chức nhiều cuộc họp, lấy ý kiến các cơ quan liên quan; tổ chức Hội đồng thẩm định dự thảo Nghị quyết; hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết trình Chính phủ. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 175/NQ-CP ngày 17/6/2025 thông qua dự thảo Nghị quyết để trình Quốc hội theo khoản 2 Điều 26 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Về bố cục và phạm vi điều chỉnh, dự thảo Nghị quyết được bố cục thành 07 điều, quy định về tiêu chí xác định, nguyên tắc, phương án, quy trình và trách nhiệm trong việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. “Nói cách khác, Nghị quyết này là nghị quyết khung, trên cơ sở đó, Chính phủ sẽ ban hành các Nghị quyết giải quyết những khó khăn, vướng mắc cụ thể”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Bộ trưởng cũng giới thiệu nội dung cơ bản của dự thảo Nghị quyết. Cụ thể, về tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Điều 2 dự thảo Nghị quyết quy định 03 tiêu chí, gồm: (1) Quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật. (2) Quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật. (3) Quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; hạn chế việc đổi mới, sáng tạo, phát triển mô hình kinh doanh mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế.
Về nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Điều 3 dự thảo Nghị quyết quy định 05 nguyên tắc khi xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, định hướng cho quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc, bảo đảm chặt chẽ, tránh tùy tiện trong thực thi.
Về phương án xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật: Khi xác định được các khó khăn, vướng mắc theo các tiêu chí, nguyên tắc đã nêu, Điều 4 quy định 02 phương án xử lý, gồm: (1) Giải thích hoặc hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 60, 61 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; (2) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành.
Đối với phương án 2 thì các khó khăn, vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhưng chưa cấp bách thì phải được ưu tiên xử lý theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Cũng theo Bộ trưởng, những nội dung cấp bách, để kịp thời tháo gỡ những “điểm nghẽn” trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung, thì chia thành 03 trường hợp.
Một là đối với khó khăn, vướng mắc có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội do Chính phủ trình, cho phép Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất.
Hai là trường hợp những khó khăn, vướng mắc phải đồng thời sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không do Chính phủ trình thì phải xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Ba là đối với các khó khăn, vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội không do Chính phủ trình và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết để điều chỉnh, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Còn những khó khăn, vướng mắc do quy định của văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan khác thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung theo quy định.
Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Điều 5 dự thảo Nghị quyết quy định bước 1: Cơ quan ban hành hoặc cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm nghiên cứu, rà soát, xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật và đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật để xử lý theo quy định tại Nghị quyết này.
Bước 2: Xử lý khó khăn, vướng mắc theo các phương án được quy định tại Điều 4 của dự thảo Nghị quyết, trong đó quy định việc thành lập Hội đồng thẩm định độc lập. Mặc dù là Nghị quyết của Chính phủ nhưng với tính chất rất đặc biệt; để bảo đảm kiểm soát quyền lực, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật thì việc thẩm định không phải theo cơ chế bình thường chỉ gồm các cơ quan thuộc Chính phủ và còn có sự tham gia của các cơ quan có liên quan của Quốc hội, đại diện Ủy ban Trung ương MTTQVN.
Về tổ chức thực hiện quy định tại Điều 6 dự thảo Nghị quyết; về hiệu lực thi hành quy định tại Điều 7 dự thảo Nghị quyết. Theo đó, Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025 và được thực hiện đến hết ngày 28/02/2027.
“Cũng trong thời gian qua, với tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”, Bộ Tư pháp đã chủ động chỉnh lý, tiếp thu ý kiến thẩm tra của Ủy ban Pháp luật Tư pháp của Quốc hội và ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để hoàn thiện, báo cáo Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định”, Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh nói.