2 tháng đầu năm 2021: Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu đạt giá trị cao

(PLVN) - Cao su, chè, hạt điều, rau quả, các sản phẩm lâm sản... là những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao hơn so với cùng kỳ năm 2020, thậm chí có mặt hàng còn có mức tăng trưởng lên tới trên 40%...
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Bộ NN&PTNT vừa cho biết, trong 2 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng nông - lâm - thủy sản ước đạt gần 11 tỷ USD, trong đó xuất khẩu (XK) ước đạt 6,17 tỷ USD, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm 2020; nhập khẩu (NK) ước khoảng 4,8 tỷ USD, tăng 13,6%; xuất siêu khoảng 1,37 triệu USD, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm 2020

Trong tháng 02, mặc dù là tháng Tết và dịch Covid-19 bùng phát, kim ngạch XK ước đạt 2,78 tỷ USD , tăng 3,0% so với tháng 02/2020; trong đó, nhóm nông sản chính ước đạt gần 1,35 tỷ USD, tăng 19,8% so với T2/2020; chăn nuôi ước đạt 26 triệu USD, tăng 26,9%; thủy sản ước đạt khoảng 400 triệu USD, giảm 21,4%; lâm sản chính đạt trên 1,17 triệu USD, tăng 40,7%.

Lũy kế 2 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 6,17 tỷ USD, tăng 16,6% so với cùng kỳ; trong đó, nhóm giá trị XK nhóm nông sản chính đạt khoảng 3,14 tỷ USD, tăng 19,0%; nhóm chăn nuôi đạt 52 triệu USD, tăng 13,8%; thủy sản đạt trên 1,0 tỷ USD, tăng 0,7% và nhóm lâm sản chính đạt trên 2,6 tỷ USD, tăng 50,1%. 

Nhiều mặt hàng đạt giá trị XK cao hơn có với cùng kỳ, như: Cao su, chè, hạt điều, rau quả, các sản phẩm lâm sản. Cụ thể: giá trị XK cao su đạt khoảng 516 triệu USD (tăng 9,9%); chè đạt 29 triệu USD (tăng 11,1%); hạt điều đạt 442 triệu USD (tăng 21,5%), rau quả khoảng 610 triệu USD (tăng 14,6%); quế đạt 32 triệu USD (tăng 18,1%); gỗ và sản phẩm gỗ đạt khoảng 2,44 tỷ USD (tăng 51,0%); mây, tre, cói thảm đạt 128 triệu USD (tăng 43,0%). 

Những mặt hàng giảm gồm: Cà phê đạt 474 triệu USD (giảm 15,6%), gạo đạt khoảng 352 triệu USD (giảm 18,3%), hạt tiêu ước đạt 93 triệu USD (giảm 0,9%); tôm đạt 443 triệu USD (giảm 5,7%), cá tra đạt 221 triệu USD (giảm 14,9%). 

Trong 2 tháng đầu năm, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường chiếm thị phần XK lớn nhất với kim ngạch đạt khoảng 2,04 tỷ USD, tăng 57,3% so với cùng kỳ và chiếm khoảng 33,05% thị phần; tiếp đến là Trung Quốc ước đạt 1,88 triệu USD, tăng 57,9% so với cùng kỳ và chiếm 30,53% thị phần; XK sang các nước ASEAN đạt 606 triệu USD, tăng 25,2%, chiếm 9,82%; EU đạt 594 triệu USD, giảm 3,1%, chiếm 9,62%; XK sang Nhật Bản đạt 573 triệu USD, tăng 15,5% và chiếm gần 9,28% thị phần; thị trường Hàn Quốc đạt kim ngạch khoảng 410 triệu USD, tăng 18,0% và chiếm 6,64% thị phần. 

Tăng đến 13,6% so với cùng kỳ năm 2020, kim ngạch NK các mặt hàng nông - lâm sản 2 tháng đầu năm ước khoảng 4,81 tỷ USD. Trong đó, giá trị NK các mặt hàng nông - lâm - thủy sản chính ước đạt 4,37 tỷ USD, tăng 29,6%. Hầu hết các sản phẩm đều có giá trị NK tăng so với cùng kỳ năm ngoái, như: Thuốc trừ sâu và nguyên liệu (+20,4%), thức ăn gia súc (+26,2%), nông sản chính tăng 63,4% (đặc biệt cao su tăng gấp 2,5 lần); gỗ và sản phẩm gỗ (+34,8%), thủy sản (+10,6%), chăn nuôi (+ 1,4%).

Kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường lớn đều tăng trong 2 tháng đầu năm

Theo số liệu ước tính, kim ngạch XK hàng hóa tháng 2/2021 đạt khoảng 20 tỷ USD, giảm 29,9% so với tháng trước và giảm 4,7% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tính chung 2 tháng đầu năm, kim ngạch XK hàng hóa ước đạt 48,55 tỷ USD, tăng 23,2% so với cùng kỳ năm 2020. Đi cùng với tổng mức tăng này, 2 tháng đầu năm 2021 cũng ghi nhận có đến 9 mặt hàng đạt kim ngạch XK trên 1 tỷ USD, chiếm 73,8% tổng kim ngạch XK.

Cụ thể, điện thoại và linh kiện có kim ngạch XK lớn nhất, đạt 9,3 tỷ USD; Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 6,9 tỷ USD; Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 5,5 tỷ USD; Hàng dệt may đạt 4,76 tỷ USD; Giày dép đạt 3,2 tỷ USD; Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,4 tỷ USD; Phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,6 tỷ USD; Sắt thép đạt 1,1 tỷ USD; Thủy sản đạt 1,01 tỷ USD. 

Trong số các thị trường XK, Hoa Kỳ vẫn là thị trường lớn nhất của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm với kim ngạch đạt 13,78 tỷ USD, tăng 34,3% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 8,2 tỷ USD (tăng 50,5%); EU đạt 6,1 tỷ USD (tăng 18,4%); thị trường ASEAN đạt 4,1 tỷ USD, tăng 3,4%; Hàn Quốc đạt 3,35 tỷ USD, tăng 13,4%; Nhật Bản đạt 3,15 tỷ USD, tăng 1,1%.  

Đọc thêm