Bệnh bạch hầu nguy hiểm như thế nào?

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) -  Theo bác sĩ Phan Văn Mạnh, Khoa Cấp Cứu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, bệnh bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, có tính chất gây dịch, chủ yếu lây truyền theo đường hô hấp. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, 70% là ở trẻ dưới 15 tuổi và chưa tiêm vaccine.

Lây truyền qua đường hô hấp

Liên quan đến 2 trường hợp mắc bệnh bạch hầu tại tỉnh Nghệ An và Bắc Giang, bác sĩ Phan Văn Mạnh cho biết, bệnh bạch hầu thuộc nhóm B (là các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có khả năng lây truyền nhanh và có thể gây tử vong) trong Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm của nước ta.

Căn bệnh này do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. C. diphtheriae là trực khuẩn hình que hơi phình một đầu hình chùy, Gram dương, hiếu khí, không sinh nha bào, không có vỏ, không di động. Vi khuẩn gây bệnh chủ yếu bằng ngoại độc tố (exotoxin) dẫn đến phù nề, sau đó hoại tử và loét niêm mạc, tạo ra các giả mạc bám chặt vào niêm mạc.

Nguồn gây bệnh bạch hầu là các bệnh nhân nhiễm bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn nhưng không biểu hiện bệnh. Bệnh chủ yếu lây qua đường hô hấp khi tiếp xúc với giọt bắn của người nhiễm bệnh lúc ho, hắt hơi. Ngoài ra, bệnh có thể lây qua con đường gián tiếp khi tiếp xúc với đồ vật bị nhiễm dịch mũi hầu từ người bệnh. Bệnh cũng có thể lây nhiễm khi tiếp xúc với vùng da tổn thương do bạch hầu.

Theo bác sĩ Mạnh, trong lịch sử, bệnh bạch hầu đã gây ra các vụ dịch lớn trong lịch sử như ở New England (1735–1740), châu Âu trong Thế chiến II và Liên Xô cũ (những năm 1990). Đến cuối thế kỷ XX, tỷ lệ bạch hầu giảm mạnh do chiến dịch tiêm chủng của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Tuy nhiên, các đợt bùng phát tiếp tục xảy ra ở những nơi có nguồn lực hạn chế.

Tại Việt Nam, nhờ có chiến lược tiêm chủng vaccine Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván (DPT) trong chương trình Tiêm chủng mở rộng từ năm 1981 mà tỷ lệ nhiễm Bạch hầu đã giảm mạnh vào những năm 2010.

Tuy vậy, từ năm 2013, các đợt bùng phát dịch lẻ tẻ đã xảy ra, chủ yếu ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên và gần đây là các tỉnh phía Bắc như Hà Giang, Điện Biên, Thái Nguyên.

Gây nhiều biến chứng nguy hiểm

Thể bệnh bạch hầu hay gặp nhất là ở đường hô hấp (mũi, họng, thanh quản, khí phế quản), trong đó 70% là bạch hầu họng. Ngoài ra, các vị trí khác có thể nhiễm bệnh như bạch hầu da, bạch hầu mắt…

Thể thường gặp ở bệnh bạch hầu là bạch hầu họng, ngoài ra còn có bạch hầu mắt, bạch hầu da. Ảnh: Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.
Thể thường gặp ở bệnh bạch hầu là bạch hầu họng, ngoài ra còn có bạch hầu mắt, bạch hầu da. Ảnh: Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.

"Để phòng bệnh, người dân cần tiêm vaccine bạch hầu. Trẻ em cần được tiêm chủng đầy đủ vaccine (Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván, DPT) theo chương trình tiêm chủng. Đối với người lớn nên tiêm nhắc lại vaccine bạch hầu mỗi 10 năm để củng cố khả năng miễn dịch của cơ thể", bác sĩ Phan Văn Mạnh, Khoa Cấp Cứu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.

Với thể bạch hầu họng, sau thời gian ủ bệnh từ 2-5 ngày, bệnh nhân bắt đầu có các triệu chứng như sốt nhẹ 37,5-38 độ C, đau họng, khó chịu, sổ mũi có thể lẫn máu. Khi khám họng có thể thấy họng hơi đỏ, amydan có điểm trắng mờ; sờ thấy hạch cổ nhỏ, di động, không đau.

Sau khoảng 3 ngày, bệnh sẽ bước vào giai đoạn toàn phát với các triệu chứng điển hình nhất: sốt tăng 38-38,5 độ C, nuốt đau, da xanh tái, mệt nhiều, sổ mũi nhiều, nước mũi trắng hoặc lẫn mủ. Khám họng thấy giả mạc lan tràn ở một bên hoặc 2 bên amydan, có thể lan trùm cả lưỡi gà và màn hầu; hạch vùng cổ sưng đau, phù nề, khi có dấu hiệu cổ bạnh là dấu hiệu nặng.

Giả mạc lan rộng có thể gây thở rít, tắc nghẽn đường thở và suy hô hấp, thậm chí tử vong nếu không được xử trí kịp thời. Nếu được chẩn đoán và điều trị sớm, giả mạc hết nhanh (1-3 ngày), bệnh nhân hết sốt và hồi phục dần sau 2-3 tuần.

Chia sẻ về biến chứng của bệnh, bác sĩ Mạnh cho biết: “Bệnh bạch hầu có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, gọi là bạch hầu ác tính, nếu không được điều trị kịp thời. Các biến chứng thường gặp nhất là biến chứng tim (thường là viêm cơ tim và rối loạn dẫn truyền trong tim) và thần kinh (gây liệt). Ngoài ra có thể gặp biến chứng trên thận, gan, tuyến thượng thận…”.

Mới đây, tại Nghệ An đã ghi nhận một trường hợp tử vong mắc bệnh bạch hầu. Bệnh nhân là em P. T. C., (trú tại Bản Phà Khảo, xã Phà Đánh, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An).

Trước đó, ngày 24/6, bệnh nhân C., có biểu hiện sốt, ho, đau họng, tự mua thuốc điều trị (thuốc tây và thuốc nam) nhưng không đỡ.

Ngày 30/6, bệnh nhân đến TTYT huyện Kỳ Sơn với tình trạng mệt mỏi, da, niêm mạc kém hồng, sốt 37,8 độ C... Ngày 4/7 bệnh nhân được chuyển lên Bệnh viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ An điều trị. Khoảng 23h50 ngày 4/7, gia đình bệnh nhân xin về với chẩn đoán lúc xuất viện là TD Bạch hầu ác tính biến chứng viêm cơ tim, suy đa tạng. Đến 4h ngày 5/7, bệnh nhân C. tử vong trên đường về địa phương.

Liên quan đến bệnh nhân này, tại Bắc Giang cũng ghi nhận trường hợp bệnh nhân M.T.B (18 tuổi, quê Nghệ An, hiện tạm trú tại xã Hợp Thịnh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang) có kết quả xét nghiệm dương tính với bạch hầu.

Đây là 1 trong 2 trường hợp có tiếp xúc gần với ca tử vong do bệnh bạch hầu tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.

Đọc thêm