Do không chịu ký khống các hợp đồng thi công xây dựng công trình cho “Sếp”, thế là giám đốc chi nhánh của một doanh nghiệp bị “trảm”; kéo theo đó là chi nhánh bị giải thể, một loạt cán bộ, công nhân của chi nhánh trong tình trạng “dở khóc, dở cười”. Sự việc xảy ra tại Công ty CP Dịch vụ Kỹ thuật Viễn thông (TST).
Kiểm tra thiết bị tại kho viễn thông TP.HCM trước khi lắp đặt Dự án MxU |
Sài không được thì “xử”!
TST là Công ty trực thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam có hơn 32% vốn Nhà nước. Công ty này có 6 chi nhánh gồm: Chi nhánh Cần Thơ, Chi nhánh miền Nam (TST2), Xí nghiệp xây lắp số 1, Xí nghiệp Tư vấn thiết kế, Xí nghiệp Lắp đặt thiết bị, Xí nghiệp Bảo dưỡng, đo kiểm,Trong đó, TST2 là một trong 6 chi nhánh con của TST – là đơn vị không ngừng tìm kiếm khách hàng và thi công tốt các công trình được giao, và luôn mang lại lợi nhuận cho TST. Nhưng kể từ khi giám đốc mới TST2 lên thay (2011), ông này đã phát hiện ra những cái sai cũng như không đồng ý ký vào các hợp đồng sai phạm thì liền bị Tổng giám đốc cắt nguồn vốn, không làm bảo lãnh thư dự thầu cho TST2, thậm chí còn giành khách hàng của TST2…
Đỉnh điểm của một loạt các sự việc mà lãnh đạo Công ty “xử ép” đối với TST2 là vào ngày 26/3/2013, Chủ tịch hội đồng quản trị Công ty – Nguyễn Đức Đồng đã ra quyết định giải thể TST2 với lý do hoạt động không hiệu quả. Tuy nhiên, hầu hết những cán bộ, công nhân viên của TST2 cho rằng so với các đơn vị khác của công ty thì TST2 vẫn là đơn vị hoạt động hiệu quả hơn (Phan Sỹ Kiên ra quyết định thành lập ban giải thể Chi nhánh mà không có danh sách những người chủ chốt của Chi nhánh).
Quá bức xúc trước những hành xử của cấp trên, tập thể cán bộ, công nhân viên TST2 đã có đơn gửi các cơ quan chức năng trình bày: Sáu công trình xây lắp viễn thông là do TST2 thi công nhưng lãnh đạo công ty lại chỉ đạo cho TST2 ký hợp đồng với các công ty khác để xuất hóa đơn giá trị chênh lệch lớn với giá thi công thực tế.
Ông Nguyễn Duy Đông – nhân viên xây lắp của TST2 cho biết: Trước khi tiến hành ký khống các bộ hồ sơ của 6 công trình nói trên, ông Phan Sỹ Kiên – (lúc đó là kế toán trưởng) hiện là Tổng giám đốc TST đã bay vào TP.HCM chỉ đạo cho TST2 tìm kiếm các đơn vị để ký khống các bộ hồ sơ nói trên. Cụ thể như, thuê trụ sở làm việc cho TST2 25 triệu đồng/tháng, nhưng trên hợp đồng với chủ nhà là 28 triệu/tháng; Không cấp vốn cho TST2 để thi công các công trình dang dở, dẫn đến công trình phải dừng thi công; Khách hàng truyền thống của TST2 giao công trình nhưng lãnh đạo công ty không cho TST2 thi công mà giao cho xí nghiệp tại Hà Nội vào thi công. Thậm chí có công trình đối tác đã giao và TST2 cũng đã nhận vật tư từ chủ đầu tư nhưng lãnh đạo công ty lại không cấp vốn nên TST2 buộc phải trả lại cho chủ đầu tư; TST2 làm hồ sơ dự thầu xong nhưng công ty không chịu làm bảo lãnh dự thầu…
Qua tìm hiểu, được biết, sáu tháng đầu năm 2012, TST2 đạt tổng sản lượng TST2 gần 7,8 tỷ đồng, nhưng doanh thu chỉ được 715 triệu đồng. Nguyên nhân là do công ty không cấp vốn để hoàn thiện các công trình. Trong khi đó, xí nghiệp xây lắp tại Hà Nội, cả năm 2012 chỉ đạt tổng doanh thu và sản lượng 7,4 tỷ đồng, thì lại được công ty lại cấp vốn 9 tỷ. Cán bộ, nhân viên TST2 còn cho biết, thời gian qua điều kiện hoạt động của TST2 trở nên rất khó khăn. Thậm chí có những tháng điện thoại và internet của TST2 đều bị cắt vì không nộp tiền cước.
Điều đáng nói là không ít công trình do TST2 thực hiện thi công đã hoàn thành 70 – 90% nhưng lại bị công ty ngừng cung cấp vốn, làm cho các công trình này phải dừng thi công. Điển hình như công trình khảo sát, lắp đặt 2G, 3G VNP2 cho Ericsson, công trình Manne, công trình MxU của Công ty HTSV. Cạnh đó, có những công trình đối tác đã giao và TST2 cũng đã nhận vật tư từ chủ đầu tư rồi nhưng phía lãnh đạo công ty lại không cấp vốn nên TST2 phải hoàn trả công trình cho chủ đầu tư. Trong khi nhiều doanh nghiệp cùng ngành khác lại không kiếm được công trình để thi công.
Câu kết làm hồ sơ khống
Chưa hết, trong lúc vốn khó khăn của các đơn vị trực thuộc không có để thực hiện thì Tổng giám đốc công ty lại ký một hợp đồng thu tiền điện ứng trước với Công ty CP Giải pháp Thanh toán Điện lực và Viễn thông với tổng số tiền 45 tỷ đồng bằng nguồn vốn vay ngân hàng…
Ông Hoàng Văn Minh, Chủ tịch Công đoàn TST2 bức xúc, sự thật thì việc TST2 kinh doanh không hiệu quả chỉ là cái cớ để lãnh đạo công ty “hất” người phụ trách TST2. Trong khi người này (phụ trách TST2) không chỉ là người làm việc có trách nhiệm mà còn là người có năng lực, luôn quan tâm lo lắng đến đời sống cán bộ, công nhân viên TST2. Tuy nhiên chỉ vì người phụ trách TST2 không làm theo “chỉ đạo” của ông Kiên (lúc đó là kế toán trưởng công ty) là phải ký vào 6 hồ sơ khống với tổng giá trị là 2,5 tỷ đồng… Nguy hiểm hơn, là sau khi “hất” ông phụ trách TST2 khỏi vị trí, ông Kiên đã bổ nhiệm ông Tâm chính ông Tâm cũng là người trước đây đã ký vào 6 bộ hồ sơ khống và biết rất rõ về các việc như đã nói trên, mục đích để giúp ông Kiên âm mưu rút 2,5 tỷ đồng.
Cũng cần nhắc lại rằng, trước đó, vào tháng 22/3/2010, ông Nguyễn Đức Đồng, lúc bấy giờ là Tổng giám đốc TST đã ký với ông Dương Tân Thành – Trưởng ban ban quản lý dự án thuộc Công ty Điện thoại TP.HCM hợp đồng thi công xây dựng mới mạng cáp quang FTTx-AON tại Trạm Lãnh Binh Thăng – CNĐT Chợ Lớn, TP.HCM. TST2 đã hoàn thành công trình với tổng chi phí là 208 triệu đồng. Nhưng không hiểu sao, sau đó ông Trần Ngọc Minh – phó Giám đốc TST2 lại ký với bà Nguyễn Thị Hiển – Tổng giám đốc Công ty CP Thương mại và Dịch vụ Việt Đan hợp đồng xây dựng mới mạng cáp quang thuê bao FTTx-AON tại Trạm Lãnh Binh Thăng – CNĐT Chợ Lớn, với giá trị hợp đồng gần 519 triệu đồng. Tiếp đó, ngày 22/9/2010, ông Đồng tiếp tục ký với ông Huỳnh Văn Xin - phó Giám đốc Công ty Điện thoại Đông Thành phố hợp đồng thi công xây lắp công trình xây dựng mới mạng cáp quang thuê bao AON khu vực trạm TKY thuộc CNĐT Gia Định.
Ngày 22/9/2010, ông Nguyễn Hữu Thắng – phó Tổng giám đốc TST giao nhiệm vụ thi công xây lắp công trình trên cho TST2. TST2 hoàn thành công trình với tổng chi phí là 185 triệu đồng. Tuy nhiên, ngày 6/1/2011, ông Đặng Quang Trung – quyền giám đốc TST2 đã ký khống với Công ty CP Thương mại Tân Bảo Châu (P.25, Q.Bình Thạnh, TP.HCM) hợp đồng về xây mới mạng cáp quang thuê bao AON khu vực TKY thuộc CNĐT Gia Định với giá 344 triệu đồng. Tương tự, từ tháng 3 – 12/2010, TST2 đã ký tất cả 7 bộ hợp đồng khống, với tổng số tiền lên đến hơn 2,8 tỷ đồng.
Đăng Đạt – T.Nhi