Bộ Quốc phòng đang tổ chức lấy ý kiến dự thảo Thông tư quy định chế độ nghỉ của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và viên chức quốc phòng. Theo đó, dự thảo Thông tư quy định cụ thể các chế độ nghỉ, thẩm quyền giải quyết, đăng ký, quản lý, đình chỉ chế độ nghỉ đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp tại ngũ, công nhân và viên chức quốc phòng. Thông tư này áp dụng đối với các đối tượng nêu trên cùng các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan.
Theo dự thảo, quân nhân, công nhân và viên chức quốc phòng được hưởng các chế độ nghỉ gồm: nghỉ hằng ngày ngoài giờ làm việc; nghỉ hằng tuần; nghỉ phép hằng năm; nghỉ phép đặc biệt; nghỉ ngày lễ, tết; nghỉ an điều dưỡng; nghỉ chuẩn bị hưu.
Ngoài ra, các đối tượng còn được nghỉ chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và an toàn, vệ sinh lao động.
Khi thực hiện các chế độ nghỉ nêu trên, quân nhân, công nhân và viên chức quốc phòng được phép ra khỏi doanh trại; được hưởng tiền lương và các khoản phụ cấp (nếu có) theo quy định hiện hành. Đối với chế độ nghỉ phép hằng năm, nếu do yêu cầu nhiệm vụ mà không được bố trí nghỉ hoặc nghỉ chưa hết số ngày nghỉ theo quy định, thì ngoài tiền lương, quân nhân, công nhân và viên chức quốc phòng còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng tiền lương cho những ngày không nghỉ.
Thời gian công tác để xác định chế độ nghỉ theo Thông tư được tính bằng tổng thời gian đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, không bao gồm thời gian đã hưởng bảo hiểm xã hội một lần.
Chế độ nghỉ hằng ngày ngoài giờ làm việc do chỉ huy đơn vị cấp trung đoàn và tương đương trở lên ban hành quy chế, bảo đảm phù hợp với đặc điểm tình hình, nhiệm vụ, điều kiện của cơ quan, đơn vị, đối tượng quản lý và bảo đảm an toàn giao thông. Chế độ nghỉ hằng tuần gồm ngày thứ Bảy và Chủ nhật, tuy nhiên chỉ huy cấp trung đoàn và tương đương trở lên có thể điều chỉnh phù hợp với yêu cầu huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu hoặc nhiệm vụ khác.
Về nghỉ phép hằng năm, quân nhân, công nhân và viên chức quốc phòng có dưới 15 năm công tác được nghỉ 20 ngày; từ đủ 15 năm đến dưới 25 năm được nghỉ 25 ngày; từ đủ 25 năm trở lên được nghỉ 30 ngày. Nếu đóng quân xa gia đình (nơi cư trú của vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi hợp pháp; bố, mẹ, người nuôi dưỡng hợp pháp của bản thân, của vợ hoặc chồng), thì được nghỉ thêm:
- 10 ngày đối với một trong các trường hợp sau: đóng quân cách xa gia đình từ 500 km trở lên; đóng quân ở địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cách xa gia đình từ 300 km trở lên; đóng quân tại các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và Nhà giàn DK.
- 05 ngày đối với một trong các trường hợp sau: đóng quân cách xa gia đình từ 300 km đến dưới 500 km; đóng quân ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới có hệ số phụ cấp khu vực 0,5 trở lên và cách gia đình từ 200 km đến dưới 300 km; đóng quân tại các đảo được hưởng phụ cấp khu vực.
Cơ quan, đơn vị từ cấp trung đoàn và tương đương trở lên sẽ lập kế hoạch nghỉ phép hằng năm, xác định tỷ lệ nghỉ phù hợp với nhiệm vụ, thường xuyên bảo đảm khả năng sẵn sàng chiến đấu và hoàn thành nhiệm vụ. Các học viện, nhà trường bố trí nghỉ phép tập trung vào dịp hè và Tết Nguyên đán.
Ngoài nghỉ phép hằng năm, quân nhân, công nhân và viên chức quốc phòng được nghỉ phép đặc biệt, mỗi lần không quá 10 ngày nếu thuộc một trong các trường hợp sau: bản thân kết hôn hoặc con đẻ, con nuôi hợp pháp kết hôn; gia đình gặp khó khăn đột xuất do vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi hợp pháp; bố, mẹ, người nuôi dưỡng hợp pháp của bản thân, của vợ hoặc của chồng bị đau ốm nặng, tai nạn rủi ro, hy sinh, từ trần hoặc bị thiệt hại nặng về tài sản do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm gây ra.
Chế độ nghỉ ngày lễ, tết được thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động và bổ sung thêm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày hội Quốc phòng toàn dân (22 tháng 12). Việc tổ chức nghỉ trong các dịp này tại các đơn vị thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu hoặc có yêu cầu nhiệm vụ do chỉ huy cấp trung đoàn và tương đương trở lên căn cứ tình hình thực tế quyết định.
Chế độ nghỉ an điều dưỡng thực hiện theo Thông tư số 179/2013/TT-BQP ngày 17 tháng 9 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, quản lý hoạt động các Đoàn an điều dưỡng và chế độ an điều dưỡng trong Quân đội.
Đề xuất chế độ nghỉ chuẩn bị hưu từ 6 đến 12 tháng
Về nghỉ chuẩn bị hưu, quân nhân, công nhân và viên chức quốc phòng có quyết định nghỉ hưu, nếu có thời gian công tác tính đến thời điểm nghỉ chuẩn bị hưu từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm thì được nghỉ 06 tháng; từ đủ 20 năm đến dưới 25 năm được nghỉ 09 tháng; từ đủ 25 năm trở lên được nghỉ 12 tháng. Thời gian nghỉ chuẩn bị hưu được đóng và tính là thời gian tham gia bảo hiểm xã hội.
Nếu có nguyện vọng nghỉ hưu ngay, không nghỉ chuẩn bị hưu hoặc nghỉ không đủ thời gian quy định, khi chuyển ra sẽ được hưởng khoản chênh lệch tiền lương do không nghỉ chuẩn bị hưu; trừ đối tượng được hưởng trợ cấp một lần do nghỉ hưu trước hạn tuổi. Trường hợp đang nghỉ chuẩn bị hưu mà phát hiện mắc bệnh hiểm nghèo, bệnh cần chữa trị dài ngày, bệnh tâm thần thì thực hiện theo quy định tại Thông tư số 157/2013/TT-BQP ngày 26 tháng 8 năm 2013 và các văn bản hướng dẫn hiện hành.
Về đăng ký, quản lý chế độ nghỉ, quân nhân, công nhân và viên chức quốc phòng khi có nguyện vọng nghỉ phải đăng ký với cơ quan quản lý nhân sự về thời điểm, thời gian, lý do và nơi nghỉ để tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền giải quyết. Trong thời gian nghỉ phép, có trách nhiệm đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp cơ sở nơi nghỉ phép.
Thẩm quyền giải quyết các chế độ nghỉ được quy định rõ: trung đoàn trưởng, chính ủy trung đoàn và tương đương trở lên giải quyết cho cấp dưới thuộc quyền; đối với sĩ quan giữ chức vụ từ trung đoàn trưởng, chính ủy trung đoàn và tương đương trở lên do chỉ huy, chính ủy cấp trên trực tiếp quyết định. Nghỉ chuẩn bị hưu đối với sĩ quan thực hiện theo quy chế công tác cán bộ trong Quân đội nhân dân Việt Nam của Quân ủy Trung ương; đối với quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Khi có lệnh động viên, trong thời chiến và tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra lệnh đình chỉ thực hiện chế độ nghỉ. Quân nhân, công nhân và viên chức quốc phòng đang nghỉ phải trở về đơn vị. Khi đơn vị có nhiệm vụ khẩn cấp, đặc biệt, chỉ huy có thẩm quyền giải quyết các chế độ nghỉ cũng có quyền gọi đối tượng về đơn vị thực hiện nhiệm vụ.