Hôm qua - 26/9, KTNN đã công bố kết quả kiểm toán chuyên đề việc quản lý, sử dụng QBVPTR giai đoạn 2020 - 2022 tại 4 tỉnh: Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang và TP Hải Phòng.
40% diện tích chưa trồng rừng thay thế
Theo kết quả kiểm toán, trong giai đoạn 2020 - 2022, 3/4 địa phương được kiểm toán đã thành lập QBVPTR cấp tỉnh (trừ tỉnh Hải Dương chưa thành lập, giao Sở NN&PTNT thực hiện các nhiệm vụ của Quỹ theo quy định).
Từ khi thành lập Quỹ đến 31/3/2023, các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang và TP Hải Phòng đã phê duyệt phương án thu tiền trồng rừng thay thế để chuyển đổi hơn 5.400ha rừng (trong đó rừng tự nhiên hơn 170ha) sang mục đích khác, diện tích rừng phải trồng thay thế là hơn 5.600ha, diện tích rừng đã trồng thay thế hơn 3.300ha. Diện tích còn phải trồng rừng thay thế nhiều nhất là Quảng Ninh với hơn 2.000ha.
Về thu - chi QBVPTR giai đoạn 2020 - 2022 đến 31/3/2023, tổng số thu trong kỳ hơn 541 tỷ đồng; số đã chi là gần 107 tỷ đồng, trong đó, số thu tiền trồng rừng thay thế đã quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày chủ dự án nộp tiền nhưng địa phương không bố trí được hoặc chưa bố trí đủ diện tích đất trồng rừng thay thế là hơn 275 tỷ đồng phải nộp về QBVPTR Việt Nam.
Tuân thủ chưa nghiêm
Báo cáo của KTNN cũng chỉ ra việc tuân thủ các quy định của pháp luật trong chuyển đổi mục đích sử dụng rừng (SDR), chuyển loại rừng, ban hành kế hoạch trồng rừng thay thế và ban hành văn bản quản lý vẫn đang bất cập tại các địa phương được kiểm toán.
Tỉnh Hải Dương quyết định chuyển mục đích sử dụng đất (SDĐ), cho thuê toàn bộ diện tích đất rừng, bao gồm cả diện tích đất rừng chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền trồng rừng thay thế với 2 dự án. Tỉnh Hải Dương, Bắc Giang chưa ban hành Quyết định chuyển mục đích SDR sang mục đích khác đối với các dự án đã nộp tiền trồng rừng thay thế (Hải Dương 5 dự án, Bắc Giang 35 dự án) theo quy định tại khoản 1 Điều 42, khoản 1 Điều 43 Nghị định 156/2018/NĐ-CP của Chính phủ.
Tỉnh Hải Dương thực hiện chuyển loại rừng đặc dụng gần 4.000ha sang loại rừng sản xuất trước khi chuyển mục đích sử dụng rừng sản xuất sang mục đích khác (thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường dẫn cầu Đồng Việt kết nối với quốc lộ 37 TP Chí Linh). Đến thời điểm kết thúc kiểm toán, địa phương chưa thực hiện báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng diện tích rừng đặc dụng do đã chuyển loại rừng đặc dụng thành rừng sản xuất trước khi chuyển mục đích SDR như nêu trên.
UBND tỉnh Bắc Giang trình Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định chủ trương chuyển mục đích SDĐ rừng phòng hộ sang mục đích khác cho Công ty CP Tập đoàn khoáng sản Á Cường khai thác khoáng sản (quặng vàng gốc) đối với diện tích rừng 2,5ha để khai thác khoáng sản thuộc khu vực cấm khai thác khoáng sản trước khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản.
Tại tỉnh Bắc Giang và TP Hải Phòng, khi quyết định phương án chấp thuận nộp tiền trồng rừng thay thế, địa phương đã không xác định rõ thuộc trường hợp UBND tỉnh bố trí đất để trồng rừng thay thế trên địa bàn theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Thông tư 13/2019/TT-BNNPTNT của Bộ NN&PTNT quy định về trồng rừng thay thế khi chuyển mục đích SDR sang mục đích khác (Thông tư 13) hoặc trường hợp địa phương không còn quỹ đất quy hoạch phát triển rừng để trồng rừng thay thế theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Thông tư 13.
KTNN cũng chỉ rõ: Địa phương đã chấp thuận phương án nộp tiền trồng rừng thay thế, đã thu tiền trồng rừng thay thế nhưng đến thời điểm kết thúc kiểm toán chưa giao kế hoạch trồng rừng thay thế cho toàn bộ diện tích rừng đã chuyển mục đích SDR, diện tích rừng trồng thay thế; Diện tích còn phải trồng rừng thay thế đến 31/3/2023 tại 4 địa phương là 2.274,07ha; số tiền trồng rừng thay thế đã quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày chủ dự án nộp tiền nhưng chưa địa phương không bố trí được hoặc chưa bố trí đủ diện tích đất trồng rừng thay thế cần phải chuyển tiền trồng rừng thay thế về QBVPTR Việt Nam để tổ chức trồng rừng thay thế tại địa phương khác theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 4 Thông tư 13 là hơn 275 tỷ đồng (Quảng Ninh gần 249 tỷ đồng; Bắc Giang hơn 23 tỷ đồng; Hải Phòng hơn 3,1 tỷ đồng).
Từ kết quả kiểm toán, KTNN đã kiến nghị khắc phục, chấn chỉnh cụ thể đối với từng địa phương.
Đặc biệt, KTNN đã chỉ ra những bất cập trong cơ chế chính sách, đồng thời kiến nghị Bộ NN&PTNT xem xét, báo cáo Chính phủ hoàn thiện, như: Quy định hệ số K1 điều chỉnh mức chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với trữ lượng rừng trồng; Quy định xử phạt vi phạm hành chính, tính lại đơn giá tại thời điểm nộp, phạt chậm nộp khi phát sinh trường hợp chậm nộp tiền trồng rừng thay thế; Quy định về thẩm quyền chuyển loại rừng đặc dụng và chuyển mục đích SDR đặc dụng tại Luật Lâm nghiệp…