Cải cách thể chế: Đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế - xã hội

(PLVN) - Bộ Tư pháp dẫn đầu bảng chỉ số cải cách hành chính (CCHC) Khối các Bộ, cơ quan ngang Bộ - đây là thông tin được đưa ra tại Hội nghị công bố Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính năm 2023 (SIPAS) và Chỉ số cải cách hành chính năm 2023 (PAR INDEX) của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, TP trực thuộc Trung ương do Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ tổ chức sáng 17/4.
Năm 2023 là năm thứ 12 liên tiếp Bộ Nội vụ phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan triển khai xác định, công bố Chỉ số cải cách hành chính của các Bộ, các tỉnh. (Nguồn ảnh: Chinhphu.vn).
Năm 2023 là năm thứ 12 liên tiếp Bộ Nội vụ phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan triển khai xác định, công bố Chỉ số cải cách hành chính của các Bộ, các tỉnh. (Nguồn ảnh: Chinhphu.vn).

Văn bản nợ đang có xu hướng giảm dần

Tham luận tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh cho biết, năm 2023, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục có nhiều chỉ đạo quyết liệt về công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, đặc biệt là yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương chú trọng tạo lập môi trường pháp lý minh bạch, thích ứng với tình hình thực tiễn; kịp thời phát hiện, tháo gỡ các rào cản về thể chế phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.

Qua đánh giá tiêu chí về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) theo chương trình đề ra tại Bộ chỉ số CCHC, Bộ Tư pháp nhận thấy các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các địa phương đã tích cực, chủ động thực hiện đúng chương trình, theo sát kế hoạch phân công và cơ bản bảo đảm văn bản được ban hành kịp thời, đúng thời hạn, mặc dù số lượng văn bản cần phải ban hành tăng hơn năm trước. Riêng đối với văn bản quy định chi tiết, qua theo dõi, số lượng văn bản các Bộ, ngành phải xây dựng nhiều hơn nhưng số văn bản nợ đang có xu hướng giảm dần.

Công tác thẩm định VPQPPL được Bộ Tư pháp, Tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan tư pháp các cấp rất chú trọng. Bên cạnh việc tập trung phát biểu ý kiến thẩm định về sự cần thiết ban hành, tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật, báo cáo thẩm định cũng đã nêu rõ ý kiến về nhiều vấn đề liên quan đến việc đơn giản hóa các thủ tục mà doanh nghiệp phải thực hiện; chú trọng thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cũng như các quy định nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan trong việc tạo điều kiện và bảo đảm nguồn lực hỗ trợ cho doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh…

Công tác kiểm tra, rà soát VBQPPL được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, kịp thời phát hiện, tự xử lý hoặc kiến nghị xử lý các văn bản có nội dung trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, không còn phù hợp với thực tiễn. Qua đánh giá điểm CCHC cho thấy, bên cạnh việc tự kiểm tra, các Bộ, ngành đã thực hiện khá tốt việc kiểm tra theo thẩm quyền các văn bản do các Bộ, ngành khác và các địa phương ban hành liên quan đến lĩnh vực quản lý của Bộ, cơ quan mình.

Đặc biệt, các Bộ, ngành đã tập trung rà soát được trên 32.600 VBQPPL, qua đó đã kiến nghị xử lý (sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới) góp phần hoàn thành nhiệm vụ rà soát, hệ thống VBQPPL theo Nghị quyết số 101/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội; rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật để triển khai Đề án 06 (Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”).

Trên cơ sở kết quả rà soát, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành, địa phương đã tham mưu cho Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát VBQPPL có nhiều báo cáo để trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền xem xét, chỉ đạo sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc xử lý các văn bản có hạn chế, bất cập, thiếu thống nhất, đồng bộ, không còn phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn, cản trở cho đầu tư, kinh doanh và đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời kiến nghị, đề xuất với cấp có thẩm quyền các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở cho việc triển khai thực hiện các định hướng, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Trong năm 2023, các Bộ, ngành và địa phương cũng đã tập trung thực hiện đúng quy định, hoàn thành chất lượng công tác hệ thống hoá VBQPPL thống nhất trong toàn quốc kỳ 2019 - 2023 để xác định đầy đủ, chính xác các VBQPPL còn hiệu lực trong cả nước từ cấp trung ương đến cấp xã, qua đó góp phần nâng cao tính thống nhất, đồng bộ, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật.

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) bám sát với nhu cầu thực tiễn, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hướng đến chuyển đổi số. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Trung ương đã quan tâm chỉ đạo, đổi mới công tác PBGDPL theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, hướng về cơ sở. Các Bộ, ngành, địa phương đã quan tâm tổ chức truyền thông dự thảo chính sách trong quá trình xây dựng VBQPPL theo Đề án “Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng VBQPPL giai đoạn 2022 - 2027” (Đề án 407); thực hiện Đề án “Thí điểm đổi mới hoạt động đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL”; Đề án “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân”. Việc thực hiện có hiệu quả các Đề án này đã góp phần quan trọng cho người dân tăng cường tiếp cận pháp luật “từ sớm, từ xa”, ngay từ khi đề xuất chính sách, soạn thảo văn bản, đồng thời nâng cao chất lượng xây dựng chính sách, thể chế, tạo đồng thuận xã hội và thuận lợi cho việc tổ chức thi hành pháp luật sau khi được ban hành.

Trong công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật, các Bộ, ngành, địa phương thực hiện ngày càng bài bản hơn, từ việc xây dựng kế hoạch, tổ chức quán triệt, triển khai, đến kiểm tra, đôn đốc và báo cáo tình hình thi hành pháp luật, nhất là trong các lĩnh vực trọng tâm liên ngành theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Việc xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã dần được các Bộ, ngành và địa phương quan tâm thực hiện, tạo sự gắn kết hơn giữa công tác theo dõi thi hành pháp luật với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật và kiểm tra, rà soát văn bản.

Những kết quả nổi bật trong công tác cải cách thể chế nêu trên không chỉ kịp thời cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, mà còn nâng cao chất lượng của hệ thống VBQPPL và hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, chung tay cùng hệ thống chính trị trong giải quyết các vấn đề phát sinh, đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế - xã hội.

Kiểm soát chặt chẽ quy định về TTHC trong các dự thảo văn bản

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh phát biểu tại Hội nghị.

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh phát biểu tại Hội nghị.

Thời gian tới, Bộ Tư pháp đề nghị các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục quan tâm, thực hiện tốt công tác cải cách thể chế, trong đó các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND các cấp tiếp tục nêu cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng, ban hành VBQPPL. Gắn việc thực hiện kế hoạch, nhiệm vụ CCHC và thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Chú trọng phòng, chống tiêu cực, tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật, không để xảy ra tình trạng lồng ghép lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ.

Tập trung nguồn lực nâng cao chất lượng công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; Tiếp tục tham mưu thực hiện bảo đảm tiến độ, chất lượng Định hướng xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 - 2025 của Quốc hội; Tập trung nguồn lực xây dựng, hoàn thiện các VBQPPL được giao chủ trì soạn thảo, bảo đảm tiến độ, chất lượng đề ra, đồng thời khắc phục tình trạng xin lùi thời hạn trình, ban hành văn bản, nợ đọng văn bản quy định chi tiết; Kiểm soát chặt chẽ các quy định về thủ tục hành chính (TTHC) trong các dự thảo VBQPPL.

Thời gian tới, Bộ Tư pháp đề nghị tiếp tục đổi mới, đa dạng nội dung, hình thức PBGDPL. Về nội dung, chú trọng thực hiện truyền thông các chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng VBQPPL theo Quyết định số 407/QĐ-TTg ngày 30/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục triển khai hiệu quả các Chương trình, Đề án của Thủ tướng Chính phủ; Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác PBGDPL, tổ chức vận hành có hiệu quả Cổng thông tin điện tử PBGDPL quốc gia, phát huy vai trò của mạng xã hội, các phương tiện truyền thông, báo chí, các thiết chế văn hóa, thông tin cơ sở… tham gia PBGDPL.

Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra VBQPPL, tăng cường các đoàn kiểm tra liên ngành, kiểm tra văn bản theo địa bàn, lĩnh vực và theo thẩm quyền của từng Bộ, ngành; kịp thời xử lý văn bản trái pháp luật đã được phát hiện, kết luận. Đề nghị các Bộ, ngành, địa phương chủ động rà soát VBQPPL thuộc phạm vi quản lý để kịp thời phát hiện, xử lý các quy định pháp luật còn hạn chế, bất cập, cản trở hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh và phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp thực hiện rà soát VBQPPL theo kế hoạch của Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát VBQPPL.

Tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý thông tin về tình hình thi hành pháp luật, từ đó kịp thời đề xuất, kiến nghị các giải pháp để giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cũng như chấn chỉnh các sai phạm, bảo đảm việc thực thi pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức thi hành pháp luật; đồng thời, tạo gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa công tác theo dõi thi hành pháp luật với xây dựng pháp luật và kiểm tra, rà soát văn bản.

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật, công tác pháp chế. Quan tâm, ưu tiên bảo đảm các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật và kinh phí cho công tác xây dựng, kiểm tra, rà soát VBQPPL, PBGDPL và tổ chức thi hành pháp luật.

Quyết liệt nâng cao Chỉ số hài lòng của người dân

Biểu đồ chỉ số CCHC năm 2023 của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. (Ảnh: MOHA)

Biểu đồ chỉ số CCHC năm 2023 của các Bộ, cơ quan ngang Bộ.

(Ảnh: MOHA)

Năm 2023 là năm thứ 12 liên tiếp, Bộ Nội vụ phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan triển khai xác định, công bố Chỉ số CCHC của các Bộ, các tỉnh; là năm thứ 7 triển khai đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính tại tất cả 63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Quá trình triển khai nghiêm túc, khoa học, dân chủ, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Nội vụ và các Bộ, ngành, địa phương trong tổ chức triển khai điều tra xã hội học, quy mô lớn với gần 90.000 mẫu, để lấy ý kiến đánh giá của công chức, người dân về kết quả CCHC của các Bộ, các tỉnh; đồng thời, để đo lường mức độ hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước.

Trong những năm qua, Chỉ số hài lòng của người dân đã mang lại những kết quả, tác động tích cực đối với cả cơ quan hành chính nhà nước và người dân. SIPAS đã và đang thúc đẩy cơ quan hành chính ngày càng nỗ lực, quyết tâm CCHC, nâng cao chất lượng phục vụ người dân, nâng cao sự hài lòng của người dân và cung cấp cơ sở để cơ quan hành chính nhà nước xác định, thực hiện các giải pháp phù hợp, hiệu quả hơn để thực hiện mục tiêu đặt ra.

Theo kết quả công bố tại Hội nghị cho biết, Chỉ số SIPAS 2023 trung bình cả nước là 82,66%, tăng 2,58% so với năm 2022 (80,08%). Tỉnh cao nhất là Quảng Ninh, đạt 90,61%, tỉnh thấp nhất là Bắc Kạn, đạt 75,03%. Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng Chỉ số CCHC với kết quả đạt 92,18%; từ năm 2012 đến nay, Quảng Ninh có 6 lần đứng đầu bảng xếp hạng Chỉ số PAR Index cả nước. Xếp vị trí thứ 2 là thành phố Hải Phòng, đạt 91,87% và là năm thứ 4 liên tiếp, Hải Phòng đạt kết quả Chỉ số trên 90%. Một số địa phương khác cũng đã thể hiện sự tiến bộ vượt trội và đạt kết quả rất tích cực trong công tác CCHC, như: Hà Nội đạt 91,43%, xếp thứ 3; Bắc Giang đạt 91,16%, xếp thứ 4 và Bà Rịa - Vũng Tàu đạt 91,03%, xếp thứ 5. Đứng cuối bảng xếp hạng Chỉ số PAR Index năm 2023 là tỉnh An Giang đạt 81,32%.

Tập trung tháo gỡ các “điểm nghẽn” về cơ chế, chính sách

Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ nhấn mạnh, năm 2024 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, năm tăng tốc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; với phương châm hành động của Chính phủ “Kỷ cương trách nhiệm; chủ động kịp thời; tăng tốc sáng tạo; hiệu quả bền vững”, chúng ta sẽ tiếp tục đồng hành, thực hiện một cách quyết liệt, có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ CCHC đã đề ra trong năm, cũng như tập trung triển khai hiệu quả Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2021 - 2030.

Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà đề nghị, sau Hội nghị này, các Bộ, cơ quan, địa phương cần chủ động phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, nhận diện rõ nguyên nhân những chỉ số thành phần còn thấp, xác định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan. Quan tâm chỉ đạo sát sao với những giải pháp thiết thực, mạnh mẽ, hiệu quả nhằm cải thiện thực chất công tác CCHC của Bộ, ngành, địa phương. Đồng thời, tập trung cao cho cải cách thể chế, đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; tháo gỡ các “điểm nghẽn” về cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân, doanh nghiệp. Có giải pháp nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL và tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách TTHC, gắn kết chặt chẽ với thực hiện chuyển đổi số, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, đồng bộ. Rà soát, bãi bỏ các TTHC, các điều kiện kinh doanh không cần thiết, không phù hợp, không khả thi, đang gây trở ngại cho phát triển sản xuất, kinh doanh. Tập trung rà soát, đơn giản hóa TTHC, nhất là trên các lĩnh vực trọng tâm. Tiếp tục hoàn thiện các Trung tâm phục vụ hành chính công cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông, áp dụng chuyển đổi số, nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp.

Năm 2023, mức độ mong đợi của người dân đối với 10 nội dung cần cải thiện nằm trong khoảng từ 83,44 - 85,12%, trong đó 3 nội dung người dân mong đợi chính quyền cải thiện nhiều nhất là: nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong giải quyết công việc cho người dân, với mức 85,12%; nâng cao chất lượng tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân, với mức 85,11% và nâng cao năng lực của cán bộ, công chức, viên chức trong giải quyết công việc cho người dân, với mức 85,03%.

Đọc thêm