Cần định lượng rõ các tiêu chí để xin nhập quốc tịch trong trường hợp đặc biệt

(PLVN) - Theo đại biểu Quốc hội, việc “có công lao đặc biệt” hay “có lợi cho Nhà nước” là những khái niệm có tính định tính cao. Nếu không được cụ thể hóa thành các tiêu chí định lượng rõ ràng thì sẽ rất khó để áp dụng thống nhất và công bằng trong việc xin nhập quốc tịch Việt Nam với các trường hợp đặc biệt.
Quang cảnh phiên thảo luận tại Tổ 8. (Ảnh: daibieunhandan.vn)
Quang cảnh phiên thảo luận tại Tổ 8. (Ảnh: daibieunhandan.vn)

Chiều 17/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội thảo luận tại tổ về một số dự án luật, trong đó có dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.

Thảo luận tại Tổ 1, Đại biểu (ĐB) Trần Thị Nhị Hà (Đoàn Hà Nội) nhấn mạnh, việc sửa đổi Luật Quốc tịch Việt Nam lần này là bước đi quan trọng để “cởi trói” về mặt pháp lý, để người Việt Nam dù đang ở trong nước hay đang an cư, lạc nghiệp ở nước ngoài đều có thể chung tay góp sức, đồng tâm, hiệp lực đưa quê hương - đất nước mình bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Nhất trí cao với nhiều nội dung đã được sửa đổi trong dự thảo Luật, ĐB Hà đóng góp thêm vào những nội dung lớn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Cụ thể, về vấn đề người xin nhập quốc tịch Việt Nam muốn giữ quốc tịch nước ngoài, ĐB cho rằng dự thảo hiện vẫn còn thiếu một nội dung rất quan trọng là quy định về bảo hộ công dân trong trường hợp đa quốc tịch. Thực tiễn quốc tế đã ghi nhận nhiều trường hợp xung đột ngoại giao phát sinh khi một công dân mang nhiều quốc tịch gặp vấn đề pháp lý ở nước thứ ba - lúc này, có nhiều quốc gia cùng tuyên bố quyền bảo hộ, hoặc không quốc gia nào đứng ra bảo hộ vì không xác định được quốc tịch “hiệu lực” tại thời điểm đó.

Pháp luật quốc tế có thừa nhận quyền của quốc gia bảo hộ công dân mang nhiều quốc tịch, nhưng cần căn cứ vào các yếu tố thực tế như nơi cư trú thường xuyên, quan hệ lợi ích, ý chí lựa chọn quốc tịch chính... Vì vậy, ĐB Hà kiến nghị dự thảo cần bổ sung nguyên tắc về xác định quốc tịch hiệu lực trong trường hợp đa quốc tịch, làm cơ sở để Việt Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ bảo hộ công dân khi họ sinh sống, làm việc hoặc gặp rủi ro pháp lý ở nước ngoài.

Về hạn chế quyền đối với người có nhiều quốc tịch, ĐB Hà tán thành nguyên tắc quy định một số quyền và nghĩa vụ chỉ dành cho người có quốc tịch duy nhất là quốc tịch Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực liên quan đến an ninh, quốc phòng, chủ quyền quốc gia. Đây là thông lệ được nhiều quốc gia áp dụng, nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia trong bối cảnh công dân có thể mang nhiều quốc tịch.

Tuy nhiên, phạm vi hạn chế được quy định trong dự thảo hiện nay là quá rộng, cần được rà soát lại để bảo đảm tính hợp lý và khả thi. Do đó, ĐB kiến nghị lược bỏ quy định hạn chế quyền bầu cử và làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập của dự thảo.

Về xin nhập quốc tịch Việt Nam trong các trường hợp đặc biệt, đây là nội dung thu hút sự quan tâm lớn trong dự thảo lần này. Thực tiễn đã cho thấy, chính sách nhập quốc tịch trong trường hợp đặc biệt - dành cho những cá nhân có công lao hoặc lợi ích đặc biệt đối với Nhà nước ta - là cần thiết và phù hợp. Tuy nhiên, cơ chế thực hiện quy định này vẫn còn nhiều bất cập.

Theo ĐB, việc “có công lao đặc biệt” hay “có lợi cho Nhà nước” là những khái niệm có tính định tính cao. Nếu không được cụ thể hóa thành các tiêu chí định lượng rõ ràng thì sẽ rất khó để áp dụng thống nhất và công bằng. Kinh nghiệm quốc tế rất đáng tham khảo. Mỹ đã có các chương trình nhập quốc tịch rõ ràng cho nhà đầu tư và chuyên gia. Nhật Bản sử dụng hệ thống bảng điểm để xét duyệt lao động tay nghề cao. Việt Nam nên học hỏi các mô hình này để hoàn thiện chính sách thu hút và giữ chân nhân tài.

Từ đó, ĐB kiến nghị dự thảo Luật cần bổ sung một điều khoản riêng về chính sách quốc tịch đối với các đối tượng như nhân tài trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, giáo dục, thể thao và nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, giao Chính phủ ban hành tiêu chí cụ thể, có thể theo hướng xây dựng bảng điểm như mô hình Nhật Bản để bảo đảm tính minh bạch, khách quan và khả thi.

Góp ý dự thảo Luật tại Tổ 8, ĐB Bế Minh Đức (Đoàn Cao Bằng) cho rằng, dự thảo Luật cần thể chế hóa được yêu cầu của Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về vấn đề này.

Theo ĐB, nhóm giải pháp thứ 4 nêu trong Nghị quyết 57- NQ/TW yêu cầu có cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch nhằm thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia, các “tổng công trình sư” trong và ngoài nước có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển khai các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia về khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và đào tạo nguồn nhân lực.

Tuy nhiên, nội dung này chưa được thể hiện rõ trong dự thảo Luật. ĐB đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, bổ sung quy định cụ thể nhằm thể chế hóa đầy đủ tinh thần của Nghị quyết 57-NQ/TW, qua đó tạo cơ chế thu hút, trọng dụng hiệu quả các chuyên gia, nhà khoa học, tổng công trình sư trong và ngoài nước.

Cũng tại Tổ 8, ĐB Quàng Thị Nguyệt (Đoàn Điện Biên) đề nghị làm rõ quy định về điều kiện “thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên” để được nhập quốc tịch. Theo ĐB, cần quy định rõ đây là thời gian thường trú liên tục hay cộng dồn. ĐB đề xuất nên tính tổng thời gian thường trú là 5 năm, có thể liên tục hoặc không liên tục.

Đọc thêm