Tài nguyên của kinh tế số
Theo Báo cáo kinh tế số của Diễn đàn thương mại và phát triển của Liên Hợp quốc, kinh tế số của Việt Nam luôn nằm trong Top đầu ASEAN về tốc độ phát triển. Báo cáo "e-Conomy SEA 2021" do Tập đoàn Google, Bain (Mỹ) và Temasek (Singapore) phối hợp công bố cho thấy, nền kinh tế internet của Việt Nam năm 2021 đạt giá trị 21 tỷ USD, đóng góp hơn 5% GDP của đất nước, cao gấp 7 lần năm 2015 và dự kiến đạt 57 tỷ USD năm 2025, đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á.
Tốc độ tăng trưởng năm 2021 đạt 31%. Dự kiến sẽ tăng trung bình khoảng 29%/năm duy trì đến năm 2025.
Mục tiêu của Việt Nam là đến năm 2025, kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%. Đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%.
“Đây là mục tiêu thách thức và cần sự quyết tâm của mọi đối tượng trong xã hội đặc biệt là nhóm doanh nghiệp có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế số. Có nhiều ngành thuận lợi chuyển đổi số nhưng có những ngành sẽ vô cùng khó khăn, nhiều địa phương sẽ gặp rất nhiều khó khăn như Hà Giang hoặc các địa phương là những vùng trũng kinh tế” - ông Nguyễn Văn Khoa, Chủ tịch Hiệp hội phần mềm Việt Nam (Vinasa) nhấn mạnh.
Do đó, theo ông Khoa, để thực hiện thắng lợi mục tiêu vô cùng thách thức của Chính phủ, phát triển kinh tế số Việt Nam cần sự hợp lực của cả hệ thống chính trị, các bộ, ngành, các địa phương và đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp. Chuyển đổi số đã tạo ra tài nguyên mới là dữ liệu, trở thành nguồn lực cho kinh tế số phát triển, mở ra không gian phát triển mới cho đất nước. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức, bởi vì có được dữ liệu, làm thế nào để khai thác chúng là một thách thức cho các địa phương, doanh nghiệp cũng như bộ, ban, ngành.
“Các nguồn lực của chúng ta hiện không chỉ thiếu mà còn bị phân mảnh. Hợp lực giữa bộ, ngành với bộ, ngành, địa phương với địa phương, doanh nghiệp với doanh nghiệp và giữa các thành phần này với nhau sẽ tạo ra được những chương trình bài bản, có định hướng, những chính sách cởi mở, thông thoáng và những hệ sinh thái số phù hợp, tối ưu cho các cơ quan, tổ chức Việt Nam. Việc không “cát cứ” dữ liệu sẽ là thách thức lớn của địa phương, doanh nghiệp, khối bộ, ban, ngành” - ông Nguyễn Văn Khoa nói.
Cần quy định bắt buộc về mở dữ liệu
Ông Nguyễn Trọng Đường, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý doanh nghiệp (Bộ Thông tin và Truyền thông) - cho biết, hiện nay thế giới có 14 nước ban hành kế hoạch quốc gia về chuyển đổi số. Việt Nam đã ban hành vào tháng 3/2022 thông qua Quyết định số 411/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
“Bộ Thông tin và Truyền thông đang phối hợp với một số tập đoàn lớn xây dựng chương trình chuyển đổi số nhà nước, dự kiến trình Thủ tướng cuối quý III năm nay” - ông Đường nói. Tuy nhiên, trước mắt, để thực hiện chuyển đổi số thành công thì “mỗi doanh nghiệp phải có tư duy là doanh nghiệp số, mỗi người dân phải nghĩ mình là một doanh nhân số, bắt đầu chính từ những cá nhân tham gia bán hàng trên mạng”.
Ông Lê Vũ Minh, Giám đốc Tư vấn chuyển đổi số (FPT Digital) cũng cho rằng, nhiều doanh nghiệp còn e ngại vì nghĩ chuyển đổi số là “to tát, phức tạp và tốn nhiều chi phí” nhưng thực chất, đây là một hành trình dài hơi và bắt đầu từ những quá trình ngắn với các sáng kiến số cần được triển khai nhanh (trong khoảng 3-6 tháng) nhằm mang lại hiệu quả sớm. Chính những lợi ích từ sáng kiến số sẽ giúp tái đầu tư cho các bước chuyển đổi số tiếp theo.
“Chuyển đổi số không phải chỉ dành cho “dân chuyên”. Thực tế là nhiều sản phẩm, giải pháp (quản trị, thương mại, sản xuất...) đã được thương mại hóa và dễ dàng tiếp cận với số đông doanh nghiệp ở quy mô và trình độ khác nhau” - ông Minh khẳng định.
Còn ông Hà Thái Bảo, Phó Tổng Giám đốc Công ty VNPT IT thì cho rằng, để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam cần chuẩn hóa, hoàn thiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn để kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu; Cần xây dựng các quy định cụ thể về việc bắt buộc chia sẻ và mở dữ liệu; Cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia (Đất đai,...; thúc đẩy xây dựng các cơ sở dữ liệu ngành, lĩnh vực quan trọng (Giao thông, NN&PTNT, Xây dựng, Tư pháp, Giáo dục...); Các bộ, ngành, địa phương cần xây dựng lộ trình cụ thể để từng bước hình thành nền tảng dữ liệu; kho dữ liệu, ứng dụng bài toán xử lý dữ liệu lớn.