95% thời gian tính toán và chuẩn bị tờ khai
Theo DB 2019, chỉ số nộp thuế của Việt Nam là 62,87, tăng 1,25 điểm so với báo cáo của DB 2018. Đây là năm thứ 5 liên tiếp các cải cách về thuế được ghi nhận trong Báo cáo Môi trường kinh doanh của WB.
Thời gian nộp thuế của Việt Nam theo xếp hạng của WB trong DB 2019 là 498 giờ, trong đó, thuế là 351 giờ và BHXH là 147 giờ, không thay đổi so với năm trước. Trong số 351 giờ nộp thuế, có 334 giờ là thời gian dành cho việc tính toán số liệu và chuẩn bị tờ khai. Thời gian cho việc nộp tờ khai và nộp thuế là 17 giờ. Số lần nộp thuế giảm 4 lần, tổng mức thuế suất/lợi nhuận giảm 0,3%.
Đáng chú ý, phần điểm về hoàn thuế GTGT của Việt Nam bị đánh về 0 là một trong những lý do khiến chỉ số nộp thuế tụt 45 bậc. Tính chung chỉ số nộp thuế của Việt Nam tụt xuống vị trí 131, rơi 45 bậc so với năm trước. Cũng theo báo cáo này, thời gian tính toán số liệu và chuẩn bị tờ khai của DN chiếm tới hơn 95% số giờ nộp thuế, khiến tiêu chí này không giảm.
Tuy nhiên, về thời gian thực hiện các thủ tục nộp tờ khai và nộp thuế, so sánh với các nước trong khu vực thì chỉ số này của Việt Nam là rất thấp, chỉ còn 1,42 giờ/tháng. Có được kết quả này là do ngành Thuế đã triển khai các dịch vụ khai thuế, nộp thuế bằng phương thức điện tử cho tất cả các DN. Đến nay đã có 99,92% tổng số DN đang hoạt động trên cả nước thực hiện khai thuế điện tử và 97,8% số DN đã đăng ký nộp thuế điện tử. Hiện số lần nộp thuế của Việt Nam là 10 lần, trong đó các loại thuế 9 lần, BHXH 1 lần, giảm 04 lần so với DB 2018. Đây là một trong những điểm nổi bật trong cải cách thuế của Việt Nam đã được WB ghi nhận. Tổng mức thuế suất trên lợi nhuận cũng đã giảm 0,3% hiện còn 37,8% so với mức 38,1% của DB 2018.
Nhiều cải cách chưa được WB ghi nhận
Để đánh giá về chỉ số nộp thuế, WB đã căn cứ vào các tiêu chí như: số giờ nộp thuế, số lần nộp thuế trong năm, tổng mức thuế suất trên lợi nhuận, chỉ số sau kê khai. Việc khảo sát được thực hiện trên một DN nhỏ giả định, không có hoạt động xuất khẩu, đầu tư để đảm bảo tính so sánh và dựa trên các quy định đã ban hành và đi vào thực hiện trong năm 2017 (độ trễ của chính sách là 2 năm).
Mặc dù đã có nhiều cải cách được Chính phủ và cộng đồng DN ghi nhận nhưng nếu nhìn vào kết quả về số giờ nộp thuế có thể nhận thấy không có sự thay đổi trong 3 năm gần đây. Lý giải rõ hơn về vấn đề này, Chủ tịch Hội tư vấn thuế Việt Nam (VTCA) bà Nguyễn Thị Cúc cho biết: vẫn còn một số cải cách tạo thuận lợi cho DN đã được áp dụng trong vài năm gần đây nhưng chưa được WB ghi nhận. Cụ thể, việc bỏ bảng kê hóa đơn hàng hóa dịch vụ mua vào bán ra kèm theo tờ khai thuế GTGT thực tế ở Việt Nam đã bỏ từ tháng 11/2014 (Nghị định 71/2014) nhưng WB vẫn tính thời gian DN lập Bảng kê thuế GTGT bằng excel mất 90 giờ.
Đối với thuế TNDN, trong thống kê của WB vẫn có đến 5 lần kê khai thuế TNDN (4 lần tạm khai theo quý và 1 lần quyết toán năm) nhưng thực tế từ khi sửa đổi Luật số 71, số lần khai thuế TNDN chỉ còn 1 lần/năm. Bên cạnh đó, WB vẫn tính 1 lần phải nộp thuế, phí xăng dầu, trong khi thực tế DN không phải khai nộp trực tiếp. Hiện tại các DN đầu mối xăng dầu đã khai nộp thuế bảo vệ môi trường bằng phương thức điện tử. Như vậy nếu theo thực tế có thể giảm thêm 5 lần nộp thuế.
Đặc biệt, chỉ số sau kê khai bao gồm toàn bộ thời gian để hoàn thành bộ hồ sơ hoàn thuế GTGT, nhận được tiền hoàn; thời gian để chuẩn bị hồ sơ, tài liệu phục vụ cho kiểm tra, thanh tra được đánh giá khá thấp. Bởi theo quy định của Việt Nam (áp dụng từ tháng 7/2016) việc hoàn thuế GTGT chỉ áp dụng cho các DN có hàng hóa xuất khẩu và hoàn cho trường hợp đầu tư, tuy nhiên việc khảo sát DB 2019 được thực hiện trên một DN giả định không có hoạt động xuất khẩu, đầu tư, do đó điểm chỉ số thời gian để hoàn thành bộ hồ sơ hoàn thuế GTGT và thời gian DN nhận được tiền hoàn thuế được tính bằng 0.
Chủ tịch VTCA cũng cho rằng, để cải thiện chỉ số nộp thuế, trong thời gian tới, ngành Thuế cần nỗ lực hơn nữa trong việc cải cách thể chế để tạo thuận lợi hơn cho DN trong việc tiếp cận chính sách, đồng thời tăng cường thực hiện điện tử hóa các thủ tục hành chính của DN, phấn đấu cung cấp hầu hết các dịch vụ công ở cấp độ 3, 4.
Về phía các DN cần phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác kế toán, đồng bộ việc ghi sổ kế toán với việc tính toán nghĩa vụ thuế, từ đó mới có thể giảm được thời gian tuân thủ nghĩa vụ thuế và góp phần giảm thời gian nộp thuế.