Chuẩn bị cho quá trình “tốt nghiệp” vốn ODA
Theo số liệu của Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2004 - 2015, trong tổng số vốn ODA, vay ưu đãi được ký kết (khoảng 45 tỷ USD), số vốn vay dành cho các chương trình dự án thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương (TW) khoảng 15,51 tỷ USD (chiếm 35%). Trong tổng số vốn vay cho chương trình dự án của ĐP, tỷ trọng vốn cấp phát còn lớn (92,2%); tỷ trọng cho vay lại còn hạn chế (7,8%).
“Thực trạng này xuất phát từ đặc điểm của giai đoạn trước là các ĐP có nhu cầu đầu tư lớn để xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế xã hội nhưng phần lớn các ĐP chưa tự cân đối được ngân sách, TW phải trợ cấp...”- Bà Thảo giải thích.
Bà Thảo cho biết, tính đến năm 2015, mới chỉ có 13 ĐP tự cân đối được thu chi và điều tiết về TW, các ĐP khác còn nhiều khó khăn, một số ĐP đặc biệt khó khăn. Đồng thời, nguồn vốn huy động được trong giai đoạn này có tính ưu đãi cao (chủ yếu là vốn ODA, lãi suất trung bình khoảng 1%, kỳ hạn dài đến 40 năm). Tuy nhiên từ năm 2010, Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình. Mức độ ưu đãi của các khoản cho vay của các đối tác phát triển dành cho Việt Nam giảm rõ rệt. Từ tháng 7 năm 2017 Việt Nam không còn được vay vốn WB theo điều kiện ODA, sau đó sẽ đến các đối tác phát triển khác; Việt Nam phải chuyển sang sử dụng chủ yếu là nguồn vay ưu đãi và tiến tới vay toàn bộ theo điều kiện thị trường.
Mặt khác, cơ chế cấp phát cũng bắt đầu bộc lộ một số hạn chế, chưa đảm bảo sự hỗ trợ đồng đều của TW tới các ĐP. Một số ĐP lớn được hỗ trợ nhiều, ĐP nhỏ khó khăn hơn được hỗ trợ ít (do quy mô của dự án nhỏ hơn). Cơ chế cấp phát chưa khuyến khích các ĐP phát huy tối đa tính chủ động để đạt được hiệu quả sử dụng vốn tối ưu.
Đồng thời, Luật Ngân sách nhà nước 2015 (có hiệu lực thì hành từ năm ngân sách 2017) đã chính thức quy định quyền vay nợ của ĐP (thông qua các quy định về bội chi, hạn mức nợ...).
“Từ các yêu cầu của pháp luật Việt Nam và đòi hỏi của tình hình mới, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành Nghị định để quy định rõ về cơ chế cho vay lại đối với chính quyền ĐP...”- Đại diện Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho biết.
Cho vay lại- Phải theo quy trình!
Theo Nghị định 52/2017/NĐ-CP, việc cho vay lại ngân sách ĐP phải tuân thủ quy định của Nghị định này và các quy định pháp luật liên quan. Vốn vay lại phải được trả nợ đầy đủ, đúng hạn từ nguồn ngân sách ĐP hoặc các nguồn vốn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Khi UBND cấp tỉnh đề xuất chủ trương đầu tư chương trình, dự án sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi, tỉnh phải xác định được cơ chế tài chính, tỷ lệ cho vay lại, hiệu quả dự án, khả năng trả nợ. Việc cho vay lại nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi đối với UBND cấp tỉnh đảm bảo công khai, minh bạch, phù hợp với khả năng tài chính của ngân sách ĐP.
Đối với cho vay lại chính quyền ĐP, tỷ lệ cho vay lại các dự án đầu tư phát triển KT-XH của ĐP được xác định theo điều kiện của nguồn vốn (vay ODA và vay ưu đãi). Tỷ lệ cho vay lại vốn ODA dự kiến chia làm 05 nhóm bao gồm 3 nhóm đối với các tỉnh nhận trợ cấp từ ngân sách TW (theo mức độ trợ cấp), và 2 nhóm đối với các tỉnh điều tiết về ngân sách TW. Đối với vốn vay ưu đãi, tỷ lệ cho vay lại chia làm 3 nhóm, bao gồm nhóm các ĐP khó khăn nhất (được NSTW trợ cấp trên 70%) và có huyện thuộc danh mục Nghị quyết 30a của Chính phủ, nhóm các tỉnh khác nhận trợ cấp từ ngân sách TW và nhóm các tỉnh có điều tiết về TW.
Đối với các dự án đầu tư theo phương thức hợp tác công tư (PPP), tỷ lệ cho vay lại thống nhất là 70%.
“Nghị định số 52/2017/NĐ-CP sẽ nâng cao tính chủ động của ĐP trong quản lý thực hiện dự án và góp phần quản lý hiệu quả nợ của ĐP; là công cụ để phân bổ nguồn lực, ưu tiên sử dụng nguồn ODA cho các ĐP khó khăn; xây dựng và nâng cao năng lực quản lý nợ của ĐP để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo khi Việt Nam không còn tiếp cận được với nguồn vốn vay ODA và chuyển sang vay theo điều kiện thị trường....”- Đại diện Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại nhấn mạnh.
Đại diện cơ quan này cũng khẳng định, Nghị định ban hành sẽ chủ yếu tác động đến quan hệ giữa các cấp ngân sách mà không làm thay đổi mức nợ công./.