Thành tựu vượt bậc...
TS. Nguyễn Thị Hương đánh giá: Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH). Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, thiếu đói, bị bao vây, cấm vận, nước ta đã trở thành nước có thu nhập trung bình với GDP bình quân đầu người gấp hơn 63 lần, từ 74 USD năm 1986 lên 4.700 USD năm 2024.
Tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1987 - 2024 đạt khoảng 6,67%, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Quy mô kinh tế tăng lên gần 106 lần, từ 4,5 tỷ USD năm 1986 lên 476,3 tỷ USD năm 2024, đứng thứ 33 thế giới. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH - HĐH, nếu như năm 1986 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng cao nhất trong quy mô nền kinh tế (36,76%), đến nay khu vực này có tỷ trọng thấp nhất (năm 2024 chiếm 11,86%); Khu vực công nghiệp, xây dựng từ chiếm tỷ trọng thấp nhất (24,74%) đã vươn lên chiếm vị trí thứ 2 (37,64%); Khu vực dịch vụ từ chiếm vị trí thứ 2 (29,18%) lên chiếm vị trí thứ nhất (42,36%).
Năng suất lao động liên tục gia tăng cả về giá trị và tốc độ là yếu tố quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển KT-XH của đất nước. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Lạm phát được kiểm soát, năm 2024 chỉ còn 3,63% từ mức 3 con số của giai đoạn đầu đổi mới; Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2024 đạt 786,29 tỷ USD, gấp hơn 267 lần năm 1986, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 9 năm liên tiếp trong giai đoạn 2011-2024.
Cân đối cung cầu - lao động được bảo đảm, lao động có việc làm năm 2024 đạt 51,9 triệu người; Trình độ của người lao động ngày càng được nâng lên với tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, có bằng, chứng chỉ đạt 28,3%, tăng 10,6 điểm phần trăm so với năm 2007...
![]() |
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001 - 2010 (%). |
Nhận xét về thành tựu của các giai đoạn, từ sau đổi mới, Cục trưởng Cục Thống kê cho hay: Giai đoạn 1986 - 1990, giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, nhiều cải cách quan trọng theo hướng thị trường đã đem lại những chuyển biến tích cực, đưa nền kinh tế Việt Nam dần thoát khỏi cuộc khủng hoảng KT-XH. Giai đoạn 2001 - 2010 là một trong những giai đoạn quan trọng trong lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam với bước phát triển vượt bậc, cơ cấu kinh tế từ mức thuần nông dần chuyển dịch thành cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, hướng tới trở thành một nước công nghiệp.
Giai đoạn 2011 - 2024: Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tích cực và phù hợp hơn với mô hình tăng trưởng dần dịch chuyển sang chiều sâu, trên cơ sở ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất, tiếp đến là khu vực công nghiệp và xây dựng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng thấp nhất...
Sau 13 năm, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 4,4 điểm phần trăm; Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,06 điểm phần trăm; Khu vực dịch vụ tăng 3,45 điểm phần trăm.
Chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn 2011 - 2030, tầm nhìn đến năm 2030 được các cấp, các ngành triển khai tích cực. Cùng với đó là các chính sách, đề án, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư công... đã tác động mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi để các hoạt động sản xuất kinh doanh được thuận lợi, hiệu quả, có tác động trực tiếp đến các ngành nghề kinh tế, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có xu hướng giảm, nhưng vẫn giữ vững vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn và là trụ cột của nền kinh tế. Tỷ trọng ngành nông nghiệp năm 2024 chiếm 8,89% trong GDP, giảm 3,92 điểm phần trăm so với năm 2011...
“Hiện nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp có năng lực cạnh tranh toàn cầu (CIP) ở mức khá cao, là một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp của khu vực và thế giới. Dịch chuyển trong nội ngành công nghiệp bảo đảm sự phát triển bền vững, gắn với bảo vệ môi trường theo hướng tỷ trọng ngành công nghiệp khai khoáng giảm dần trong khi tỷ trọng ngành chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ cao tăng lên.
Khu vực dịch vụ chuyển dịch rõ rệt từ các ngành dịch vụ truyền thống sang các ngành dịch vụ hiện đại, phản ánh sự chuyển mình của nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp 4.0. Các ngành dịch vụ như tài chính, thương mại, du lịch, công nghệ thông tin, giáo dục và y tế phát triển nhanh chóng, phản ánh sự thay đổi nhu cầu của thị trường, sự phát triển của hạ tầng kỹ thuật và ứng dụng công nghệ mới, đóng góp nhiều vào tăng trưởng GDP” - TS. Nguyễn Thị Hương nhấn mạnh.
Nỗ lực để vươn xa!
Tuy đạt được nhiều thành tựu, nhưng lãnh đạo Cục Thống kê cho rằng, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1986 đến nay cũng tồn tại không ít hạn chế. Cụ thể: Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng thấp và có xu hướng giảm dần ở giai đoạn đầu của quá trình CNH - HĐH; Tốc độ chuyển dịch tỷ trọng các khu vực kinh tế trong GDP còn khá chậm; Cơ cấu kinh tế của Việt Nam còn khá lạc hậu so với một số quốc gia trong khu vực; Tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo còn ở mức thấp trong GDP, sau gần 40 năm chiếm 24,43% (năm 2024), chỉ tăng 5,46 điểm phần trăm so với năm 1986; Cơ cấu lao động có việc làm chuyển dịch nhanh hơn cơ cấu ngành kinh tế, cho thấy sự dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế chưa thật sự hiệu quả, chưa theo hướng hiện đại, sản xuất vẫn còn mang tính gia công và phụ thuộc vào nguồn hàng nhập khẩu và phụ thuộc vào khu vực nước ngoài; Cơ cấu các ngành dịch vụ chuyển dịch chậm và tỷ trọng không ổn định...
![]() |
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2024 (%). |
Mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những thời kỳ tăng trưởng thăng trầm, nhưng nhìn chung nhịp độ tăng trưởng dài hạn khá cao và ổn định, ngoại trừ một số năm đầu đổi mới và những năm bị ảnh hưởng của dịch Covid-19 (năm 2020 và 2021), tất cả các năm còn lại đều có tốc độ tăng trưởng trên 5%/năm. Những thành tựu phát triển kinh tế mà Việt Nam đã đạt được trong chặng đường gần 40 đổi mới là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng là nhờ chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đi đúng hướng.
Để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, trong giai đoạn tới, theo Cục trưởng Cục Thống kế: Chúng ta cần chú trọng một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, tăng nhanh tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng, khu vực dịch vụ, giảm mạnh tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và đạt mục tiêu đặt ra đến năm 2045 trở thành nước phát triển. Do đó phải ưu tiên phát triển khoa học công nghệ, đi nhanh vào HĐH ở những ngành, những lĩnh vực then chốt; Đẩy mạnh phát triển những ngành công nghệ cao để phát triển thành những ngành mũi nhọn;
Thứ hai, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển các ngành dịch vụ. Các cấp, các ngành có chính sách ưu tiên cao để thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển một số ngành dịch vụ có nhiều lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như: Du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, giáo dục, y tế chất lượng cao; Tiến tới hình thành những trung tâm dịch vụ, du lịch có đẳng cấp khu vực và thế giới;
Thứ ba, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tăng cường điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành nghề mũi nhọn cho phù hợp. Vốn đầu tư của Nhà nước cần được đầu tư một cách có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn như đầu tư vào các lĩnh vực công cộng hoặc lĩnh vực cần thiết cho nền kinh tế mà tư nhân không có khả năng thực hiện hoặc không muốn đầu tư, giảm đầu tư của Nhà nước trong lĩnh vực và tư nhân có thể đảm nhận được.
Thứ tư, đổi mới công nghệ. Công nghệ được xem là một trong những khâu còn nhiều hạn chế trong phát triển kinh tế ở Việt Nam. Những hướng giải pháp cơ bản là: Tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động chuyển giao công nghệ; Hướng dẫn lựa chọn chuyển giao các công nghệ phù hợp với trình độ phát triển KT-XH của Việt Nam.
Thứ năm, gắn chiến lược phát triển nhân lực với phát triển KT-XH. Tập trung gắn kết việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển KT-XH, CNH - HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; Gắn quy hoạch phát triển nhân lực của mỗi Bộ, ngành, địa phương đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.