Để sơ cấp cứu đúng cách và đạt hiệu quả, Bộ Công an khuyến cáo người cần chú ý:
Đặt người bị nạn nằm ở vị trí bằng phẳng, thoáng khí và kiểm tra tình trạng nạn nhân xem có còn thở hay không (quan sát lồng ngực, sử dụng tai để nghe hơi thở nạn nhân).
Trong trường hợp người bị nạn còn thở thì đặt họ ở tư thế nằm nghiêng (Hình 60) để nếu nạn nhân có nôn, ói thì chất nôn sẽ thoát ra ngoài và không trào ngược lại. Cởi bỏ dần quần áo ướt và bằng mọi cách làm ấm cơ thể người bị nạn; nhanh chóng đưa người bị nạn đến cơ sở y tế gần nhất để được chăm sóc.
Trong trường hợp nạn nhân đã ngừng thở nhưng tim vẫn đập và mạch vẫn còn thì phải nhanh chóng hô hấp nhân tạo (hà hơi thổi ngạt) để cấp ôxy cho nạn nhân thở trở lại.
Nếu nạn nhân ngừng thở hoàn toàn, kiểm tra thấy tim đã ngừng đập và không thấy mạch thì phải lập tức tiến hành hô hấp nhân tạo kết hợp ép tim ngoài lồng ngực theo các bước sau đây:
Bước 1: Khai thông đường thở và loại bỏ những dị vật trong miệng nạn nhân bằng cách đặt nghiêng đầu nạn nhân, sử dụng ngón tay lùa trong khoang miệng để loại bỏ các dị vật và đẩy bỏ đờm, dãi nhằm khai thông đường thở (Hình 61). Tiếp theo đặt thẳng đầu nạn nhân, một tay để lên trán và đẩy ra phía sau, một tay nâng cằm nạn nhân lên sao cho cổ được ưỡn tối đa.
Bước 2: Mở miệng nạn nhân, một tay bịt mũi nạn nhân, tay còn lại đỡ cằm và dùng miệng bịt kín miệng nạn nhân rồi thổi ngạt hai lần liên tiếp (Hình 62). Trước mỗi lần thổi ngạt, người thực hiện sơ cứu nên hít hơi đầy không khí vào phổi của mình.
Bước 3: Đặt một tay lên giữa vùng ngực của nạn nhân (vị trí giữa hai núm vú hoặc vị trí dưới mỏm xương ức khoảng 1,5 cm), tay còn lại đặt phía trên và đan các ngón tay vào tay phía dưới (Hình 63). Tiến hành ấn liên tục 30 lần (tốc độ ấn khoảng 100 lần/phút), sau đó tiếp tục lặp lại quy trình thổi ngạt 2 hơi liên tiếp và ép tim 30 lần cho đến khi nạn nhân có thể tự thở hoặc có sự hỗ trợ của nhân viên y tế.
Bộ Công an đồng thời luu ý một số điểm cần tránh khi sơ cứu nạn nhân đuối nước:
Không dốc ngược nạn nhân hoặc vác nạn nhân lên vai rồi chạy. Các hành động này thường ít mang lại hiệu quả, vì quá trình đó sẽ làm mất thời gian vàng để hô hấp nhân tạo cứu sống bệnh nhân. Đồng thời, với hành động như vậy sẽ chỉ ra nước trong bụng là chính, nước trong phổi chỉ thoát ra ngoài khi ta tiến hành hô hấp nhân tạo, ép tim ngoài lồng ngực và khi nạn nhân thở trở lại.
Phải tận dụng thời gian vàng để nạn nhân có thể thở lại bằng cách hô hấp nhân tạo và ép tim ngoài lồng ngực trước khi vận chuyển nạn nhân tới cơ sở y tế gần nhất.