Theo đó, 4 thành viên trong gia đình được lấy tên đặt cho những con đường, tuyến phố tại quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng, gồm: Lưu Quang Thuận, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh và gần đây nhất là Lưu Trùng Dương. Ngoài ra, tên Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh cũng xuất hiện tại nhiều thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM, Bình Định… Điều này càng cho thấy ảnh hưởng sâu rộng và vị thế đặc biệt của gia đình trong lòng công chúng cũng như trong dòng chảy văn học nghệ thuật Việt Nam.
Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận: Người đặt nền móng nghệ thuật đầu tiên
Để nói về gia đình nghệ sĩ đặc biệt này, chắc chắn phải bắt đầu với nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Không chỉ là người anh, người cha, Lưu Quang Thuận còn là người đặt nền móng nghệ thuật đầu tiên cho cả gia đình khi trở thành một trong những nhà thơ, nhà viết kịch tiêu biểu của nền văn học cách mạng thời kỳ đầu. Tư tưởng nghệ thuật và nhân cách sống của ông chính là ngọn lửa âm ỉ nhưng bền bỉ, truyền cảm hứng cho các thế hệ sau tiếp bước. Con gái của ông, PGS.TS Lưu Khánh Thơ từng chia sẻ: “Cha tôi không phải là một người thật nổi tiếng. Cuộc đời ông không có gì chói chang đặc biệt. Điều lớn nhất ông để lại cho chúng tôi là nhân cách của người nghệ sĩ một đời lao động, một đời trong sạch. Tình yêu và niềm tự hào về cha mình đã đi theo chúng tôi suốt đời”.
Lưu Quang Thuận (1921 - 1981) sinh ra và lớn lên tại thành phố biển Đà Nẵng, trong một gia đình trí thức. Ngay từ thuở nhỏ, ông đã sớm bộc lộ tài năng văn chương hiếm có. Khi mới học tiểu học, ông từng đoạt giải nhất cuộc thi học sinh giỏi văn toàn miền Trung và được Vua Bảo Đại thết cơm. Ở cái tuổi còn cắp sách đến trường, thơ và truyện ngắn của ông đã xuất hiện trên nhiều tờ báo lớn ở Hà Nội, Sài Gòn. Đơn cử như truyện ngắn “Đồng hào ván mới” trên tuần báo Cậu ấm năm 1934, khi ông mới 13 tuổi.
Năm 1937, Lưu Quang Thuận vào Sài Gòn vừa học vừa làm và tiếp tục dấn thân vào con đường viết truyện, làm thơ đăng báo. Năm 1941, ông viết vở kịch đầu tay có tên “Chu Du đại chiến Uất Trì”, vở kịch vui một màn từng được biểu diễn nhiều lần tại Đà Nẵng, Hội An và Hà Đông. Năm sau đó, tập thơ “Tóc thơm” được xuất bản, đánh dấu bước chuyển mình rõ nét từ người viết trẻ thành cây bút chuyên nghiệp của ông.
Đến năm 1943, Lưu Quang Thuận quyết định ra Hà Nội, nơi được coi là Thủ đô văn hoá của toàn Đông Dương lúc bấy giờ. Lăn lộn với cuộc sống nơi đất khách, ông mưu sinh bằng nhiều nghề, kể cả kéo màn rạp hát. Nhưng chính trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ngọn lửa sáng tạo trong ông lại bùng cháy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Chỉ trong vòng hai năm, ông không ngừng sáng tác và cho ra đời hàng loạt vở kịch thơ, kịch nói, như: Lữ Gia, Lê Lai đổi áo, Kiều Công Tiễn, Phượng Trì thôn, Hoàng Hoa Thám, Quán Thăng Long... Hầu hết các vở kịch đều được các ban kịch tài tử và đoàn học sinh hướng đạo công diễn ở Đà Nẵng, Huế, Hà Nội... Một số vở được Tạp chí văn hoá Tri Tân ấn hành như “Lê Lai đổi áo” , “Yêu Ly”.
Trong những năm tiếp theo, hành trình nghệ thuật của Lưu Quang Thuận tiếp tục thăng hoa với nhiều vai trò khác nhau. Ông tham gia ban kịch Anh Vũ, mở Nhà xuất bản Hoa Lư, sáng lập Tạp chí Sân khấu với số đầu tiên ra ngày 20/11/1946 và làm Giám đốc Việt Nam thư ấn cục tại Chiến khu Việt Bắc. Từ năm 1948, ông tiếp tục hoạt động trong các đoàn kịch và làm việc tại nhiều cơ quan văn hóa, báo chí, trước khi gắn bó với Nhà hát Chèo Việt Nam từ năm 1965 cho đến khi qua đời.
Nhà thơ, nhà văn Lưu Trùng Dương: Một đời thơ gắn bó với quê hương, đồng đội
Lưu Trùng Dương (1930 - 2014), tên thật là Lưu Quang Lũy, còn từng được biết đến với nhiều bút danh như Trần Hướng Dương, Trần Thế Sự, Lưu Ly... Ông là em ruột của nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và là chú ruột nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Sinh ra tại Đà Nẵng, Lưu Trùng Dương sớm bộc lộ tinh thần yêu nước và năng khiếu văn chương.
Đầu những năm 1940, ông cùng anh trai Lưu Quang Thuận ra Hà Nội học tập. Tuy nhiên, đến trước thời điểm Toàn quốc kháng chiến (tháng 12/1946), ông trở về quê hương, tham gia làm cán bộ tuyên truyền xung phong tại chiến khu Quảng Nam - Đà Nẵng. Chẳng bao lâu sau, khi mới 17 tuổi, ông nhận thư gọi và một mình đi bộ từ Quảng Nam vào Quảng Ngãi để nhập ngũ. Kể từ đó, ông trọn đời gắn bó với sự nghiệp văn học của đất nước.
|
Chân dung nhà thơ, nhà văn Lưu Trùng Dương. |
Tự nguyện đi theo cách mạng cầm súng giữ nước, bước chân Lưu Trùng Dương đã trải qua nhiều vùng chiến sự ác liệt, từ Đà Nẵng, Quảng Nam, Đường 9, Khe Sanh, Tây Nguyên cho đến nước bạn Lào. Chính trải nghiệm thực tế đã cho ông vô vàn tư liệu quý báu để xuất bản những tập thơ chiến đấu, thơ của chiến sĩ, thơ của đêm hành quân đánh giặc. Những bài thơ như “Mây biên giới”, “Thương nhất anh nuôi”, “Thơ bay khắp đỉnh Trường Sơn”… từng là hành trang tinh thần của biết bao thế hệ chiến sĩ trong thời chiến.
Đối với Lưu Trùng Dương, văn chương không phải chỉ là đam mê cá nhân mà còn là sứ mệnh. Ông làm thơ không phải cho riêng mình, mà để góp phần tham gia kháng chiến, đánh giặc. Gần 60 năm cầm bút, ông kiên định theo đuổi hai chủ đề xuyên suốt là cảm xúc về quê hương và đồng đội. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Đà Nẵng, nguyên Phó Chủ tịch thường trực, Bí thư Đảng Đoàn Hội Văn nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng, Tổng Thư ký Hội Văn nghệ TP Đà Nẵng. Trong suốt cuộc đời mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm, trong đó có 19 tập thơ, 15 tác phẩm văn xuôi, 9 kịch bản sân khấu - điện ảnh. Ông đã nhận được 11 giải thưởng văn học, 5 huy chương các loại.
Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và nhà thơ Xuân Quỳnh: Mối tình thơ ca bất tử
Là người con có tài nghệ thuật nổi bật trong 6 người con của nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh. Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) được xem là một trong những nhà viết kịch xuất sắc nhất trong đời sống sân khấu thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX. Sinh ra tại Phú Thọ, tuổi thơ của ông trôi qua êm đềm bên cha mẹ.
Năm 1954, khi hoà bình lập lại, gia đình ông chuyển về Hà Nội. Tại đây, ông học phổ thông, gia nhập quân đội năm 1965 và bắt đầu sáng tác thơ. Từ năm 1970 - 1978, ông xuất ngũ và làm nhiều nghề để kiếm sống, mưu sinh nhưng vẫn không ngừng sáng tác. Trong những năm 1978 - 1988, ông trở thành biên tập viên Tạp chí Sân khấu và bắt đầu chuyển hướng sang sáng tác kịch với tác phẩm đầu tay mang tên “Sống mãi tuổi 17” được viết theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ.
Cũng giống như người cha, thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của Lưu Quang Vũ đã sớm bộc lộ từ nhỏ. Trên hành trình sáng tạo, dù ở thể loại nào, ông cũng đạt được những dấu ấn đáng kể. Tuy vậy, chỉ đến khi bước chân vào sân khấu kịch nói, ông mới thực sự tìm thấy con đường ngắn nhất để đến với công chúng.
Dù tuổi đời còn khá trẻ, Lưu Quang Vũ đã là tác giả của gần 50 vở kịch. Hầu hết các vở kịch của ông đều được các đoàn kịch, chèo gây dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng, như: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lời thề thứ 9… Với tài năng vốn có của mình, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật sân khấu.
|
Vợ chồng nhà thơ Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh. (Ảnh trong bài: Tư liệu gia đình) |
Nhà thơ Xuân Quỳnh (1942 - 1988), người vợ được nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ hết mực yêu thương có tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh. Bà xuất thân trong một gia đình công chức tại tỉnh Hà Tây cũ. Thuở ban đầu bà gắn bó với nghề múa nhưng về sau khi nhận ra đam mê của mình, bà bước hẳn sang lãnh địa thi ca.
Với tài năng xuất chúng, bà được mệnh danh là “nữ hoàng” thơ tình Việt Nam với những sáng tác chạm đến trái tim bao thế hệ như “Sóng”, “Thuyền và biển”. Xuân Quỳnh là hội viên Báo Văn nghệ từ năm 1967 và là Ủy viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam khóa 3. Năm 2001, bà được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Năm 2017, bà được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Đặc biệt, trong sự nghiệp văn chương của Xuân Quỳnh không thể không nhắc đến người chồng Lưu Quang Vũ, cả hai đã viết rất nhiều bài thơ lấy cảm hứng từ người bạn đời. Dù trước khi đến với nhau cả hai đã trải qua một cuộc hôn nhân đổ vỡ nhưng tình yêu của họ vẫn cháy bỏng và được ví như mối tình thơ ca bất tử. Đáng buồn, giữa lúc sự nghiệp thăng hoa, vụ tai nạn thảm khốc đã cướp đi mạng sống của hai vợ chồng và con trai Lưu Quỳnh Thơ vào năm 1988.