Cặp đôi 'hổ phụ sinh hổ tử' của làng sân khấu Việt Nam

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Dân gian thường có câu “hổ phụ sinh hổ tử”, “cha nào con nấy” hay “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” - hàm ý về sự truyền thừa tài năng, khí chất và phẩm cách giữa các thế hệ trong một gia đình. Thực tế, trong dòng chảy nghệ thuật Việt Nam, có những cặp bố - con nổi tiếng, ghi dấu ấn đậm nét trong cùng một lĩnh vực hoặc tỏa sáng ở những con đường khác nhau.

Tiêu biểu, nói về cặp đôi “hổ phụ sinh hổ tử” của làng sân khấu Việt Nam, hẳn không thể bỏ qua hai cái tên: NSND Thế Lữ và NSND Nguyễn Đình Nghi. Họ là cha và con, là hai thế hệ nghệ sĩ lớn có duyên kỳ ngộ với sân khấu Việt Nam hiện đại. Dẫu mỗi người chọn cho mình một con đường riêng, phong cách riêng nhưng cả hai đều góp phần làm nên diện mạo của nghệ thuật sân khấu nước nhà qua từng thời kỳ chuyển mình.

NSND Thế Lữ: “Ông hoàng thơ ca” đến “anh cả” của làng sân khấu

Trước tiên, nói về người cha - NSND Thế Lữ hay còn được giới nghệ sĩ sân khấu trìu mến gọi bằng cái tên “anh cả” của làng sân khấu Việt Nam. Sở dĩ gọi như vậy bởi ông chính là người có công khai phá bộ môn kịch nói mới mẻ cho đất nước vào những năm giữa thế kỷ 20, cũng là người có công đầu đặt nền móng cho một “thánh đường” sân khấu mang bản sắc và vẻ đẹp riêng biệt của Việt Nam.

Thế nhưng, nếu chỉ nhắc đến Thế Lữ với vai trò người mở đường cho sân khấu kịch nói có lẽ vẫn chưa đủ để hình dung hết tài năng của người nghệ sĩ đa tài này. Ông còn là một trong số ít hiếm hoi tham gia đầy đủ cả ba thể loại chính của văn học nghệ thuật hiện đại Việt Nam, gồm kịch nói sân khấu, thơ trữ tình và văn xuôi. Điều đáng nể là ở cả ba lĩnh vực, ông không chỉ góp mặt mà đều là người đi tiên phong và có thành tựu sáng ngời.

NSND Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Thời trẻ ông yêu thích hầu hết các môn nghệ thuật, ông học đàn, hát, vẽ tranh, rồi chuyển bút vẽ sang bút viết. Năm 1932, ông tham gia Tự lực văn đoàn và là một trong những cây bút chủ lực của 2 tờ báo “Phong hóa” và tờ “Ngày nay”. Ngoài là nhà báo tài hoa, ông còn toả sáng trong thể loại văn xuôi với loạt truyện trinh thám đầy ly kỳ, hội hộp: Vàng và máu, Bên đường Thiên Lôi, Gói thuốc lá, Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh. Hay những truyện ngắn lãng mạn mà ông đã vô tình thu thập trên các nẻo đường lang bạt: Một đêm trăng, Vì tình, Câu chuyện trên tàu thủy, Mau trí khôn, Một người say rượu, Câu chuyện đường rừng...

Cũng trong khoảng thời gian này, Thế Lữ bước chân vào con đường nghệ thuật bằng tài năng thơ ca và trở thành ngọn cờ đầu của phong trào Thơ mới. Với nhiều bài thơ bất hủ, ông đã góp phần đáng kể vào việc hiện đại hoá thơ ca Việt Nam. Ngay ở tập thơ đầu tiên có tựa đề “Mấy vần thơ”, ông đã được văn học sử nước nhà ví như một thi sĩ ở cái thời “Thơ mới vừa ra đời” và ông “như vầng sao đột ngột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam” (chữ của Hoài Thanh và Hoài Chân trong tập Thi nhân Việt Nam). Đặc biệt bài “Nhớ rừng” gây thích thú, xúc động cho nhiều độc giả qua nhiều thế hệ. Có thể khẳng định hình tượng hổ trong bài thơ “Nhớ rừng” là đóng góp riêng biệt, độc đáo của ông cho một tác phẩm tiêu biểu của Thơ mới.

NSND, nhà thơ Thế Lữ. (Ảnh trong bài: Tư liệu)

NSND, nhà thơ Thế Lữ. (Ảnh trong bài: Tư liệu)

Với những thành tựu sáng ngời, Thế Lữ là một tên tuổi nổi bật trên văn đàn, thi đàn Việt Nam. Thế nhưng, sau hành trình miệt mài tìm kiếm và sáng tạo, ông dần nhận ra rằng: thơ, truyện, hay báo chí… dù giàu biểu cảm đến đâu, vẫn chưa đủ sức khắc họa trọn vẹn cái đẹp hữu hình. Do đó, ở cuối mùa Thơ mới, người nghệ sĩ giàu say mê này đã bỏ hết sau lưng để tìm đến một bộ môn nghệ thuật đầy quyến rũ và mới mẻ đối với Việt Nam là sân khấu kịch nói. Ông cho rằng kịch nói chính là một vũ khí sắc bén để truyền tải những ý tưởng tốt đẹp tới người xem, do đó ông tìm thấy cơ hội kết tinh vẻ đẹp của toàn bộ những thể loại văn chương từng gắn bó với mình để truyền đạt vào thể loại này.

Ngay từ những ngày đầu bước vào sân khấu, Thế Lữ đã xác định: Nghệ thuật kịch trường Việt Nam sẽ được cải tiến, có một địa vị xứng đáng, sẽ xây nền đắp móng trên đời sống xã hội Việt Nam. Với niềm đam mê, hào hứng và tinh thần trách nhiệm, ông đã góp phần không nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu trên. Dù là trong vai trò diễn viên hay đạo diễn, Thế Lữ đều dồn hết tâm huyết vào từng vở diễn.

Hàng loạt tác phẩm sân khấu ra đời, tạo được tiếng vang lớn. Trong đó, vở kịch dài Kim Tiền được xem là dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự xuất hiện của một đạo diễn Việt Nam mang tên Thế Lữ. Đây cũng là một trong những thành công đáng nhớ của sân khấu kịch nói Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám. Cứ thế, Thế Lữ bén duyên với sân khấu kịch nói bằng con mắt và tấm lòng của một nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà mỹ thuật.

Những ban kịch Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ của ông lần lượt ra đời. Những hoạt động dàn cảnh và biểu diễn kịch của ông ghi dấu ấn mạnh mẽ trên sân khấu Hà Nội những năm 30 đến 40 thế kỷ trước. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, ông vẫn miệt mài với biết bao vở kịch dài ngắn được phục vụ cho quần chúng, động viên sức người, sức của cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Sau năm 1954, khi hòa bình lập lại, ông tiếp tục đảm nhận vai trò phụ trách của Đoàn Kịch nói Trung ương (nay là Nhà hát Kịch Việt Nam), tham gia biên kịch, đạo diễn, biểu diễn cho biết bao tác phẩm.

Nói không sai khi cho rằng tên tuổi Thế Lữ gắn liền với sự phát triển của nghệ thuật sân khấu nước nhà, nhất là bộ môn kịch nói. Từ công khai phá của ông, đến nay, đã có biết bao thế hệ nghệ sĩ tài năng và những vở diễn kinh điển đi vào lịch sử sân khấu nước nhà. Việc trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho Thế Lữ vào năm 2000 chính là sự ghi nhận xứng đáng cho những cống hiến to lớn và bền bỉ của ông đối với nền nghệ thuật dân tộc.

NSND Nguyễn Đình Nghi: Đạo diễn “lão làng” của sân khấu kịch nói

Khác với người cha đa tài NSND Thế Lữ, người thành công ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác nhau, NSND Nguyễn Đình Nghi - con trai trưởng của ông sinh ra chỉ thuộc về sân khấu. Nguyễn Đình Nghi sinh năm 1928 tại Hải Phòng. Ngay từ nhỏ ông đã bộc lộ khả năng sân khấu đặc biệt của mình. Ông tham gia diễn kịch và trở thành một diễn viên được yêu mến. Rồi ông đi học đạo diễn ở Nga, bảo vệ luận án Phó tiến sĩ sân khấu tại Viện sân khấu danh tiếng Luiatraxki.

Đối với Nguyễn Đình Nghi, người thầy nghệ thuật lớn nhất cuộc đời của ông chính là cha mình: “Cha tôi đã dạy tôi những điều không trường lớp nào dạy nổi”. Thế Lữ luôn là niềm tự hào, niềm khích lệ lớn trên con đường nghệ thuật của ông. Quả thật, chính Thế Lữ là người “truyền lửa” giúp cho con trai mình tự tin hơn để nối nghiệp cha. Nguyễn Đình Nghi từng thú nhận Thế Lữ đã di truyền cho ông một tín niệm về nghề đạo diễn rất giản dị và hệ trọng: Thể loại kịch Việt Nam hiện đại phải biết kể chuyện một cách Việt Nam và cách kể chuyện Việt Nam phải biết tiếp nhận, tích hợp sân khấu cổ truyền Việt Nam, bằng cách kể chuyện theo nguyên tắc mỹ học: tả ý, tả thần.

Có lẽ chính nhờ được tiếp thu những kiến thức tích luỹ trên giảng đường và những trải nghiệm quý báu ngoài thực tiễn, Nguyễn Đình Nghi sớm khẳng định tên tuổi của mình trên con đường nghệ thuật. Ông được xem là một trong những đạo diễn tiêu biểu của thế hệ vàng trong nửa sau thế kỷ 20, giai đoạn mà kịch nói Việt Nam bước vào thời kỳ rực rỡ. Ông là người có công lớn trong việc chuyển thể các tác phẩm văn hóa lên sân khấu kịch nói.

NSND, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi.

NSND, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi.

Cả cuộc đời mình, Nguyễn Đình Nghi dành trọn cho việc xây dựng và hoàn thiện loại hình sân khấu của dân tộc. Các tác phẩm của ông không nhiều bởi ông không chạy theo số lượng, cái ông hướng đến là chiều sâu nghệ thuật trong từng tác phẩm. Những vở diễn như Con nai đen, Cơ sở trắng, Âm mưu và hậu quả, Đại đội trưởng của tôi, Hình và bóng, Con cáo và chùm nho, Hồn Trương Ba, da Hàng Thịt… tất cả đều mang dáng dấp của một tác phẩm lớn, đánh dấu một thời vàng son của kịch nói Việt Nam.

Nhiều người trong nghề từng nhận xét toàn bộ cuộc sống của Nguyễn Đình Nghi là thuộc về sân khấu. Tình yêu sân khấu trong ông là thứ tình cảm máu thịt, không thể gọi tên, không thể đong đếm. Chính tình yêu ấy đã thôi thúc ông không ngừng kiếm tìm sự thăng hoa, bay bổng của sân khấu Việt Nam. Năm 2012, ông vinh dự được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho cụm tác phẩm xuất sắc.

Nếu gọi Thế Lữ là người đặt nền móng, được ví như một trong những người có công khai phá cho sân khấu kịch nói Việt Nam, thì NSND Nguyễn Đình Nghi lại là người kế thừa, phát triển và nâng tầm di sản ấy bằng tài năng đạo diễn và tư duy nghệ thuật sắc sảo. Họ, hai thế hệ - hai phong cách - hai hành trình khác nhau, nhưng cùng hội tụ một điểm chung bất biến đó là tình yêu với sân khấu, như một mạch nguồn chảy trong huyết quản, nối truyền từ cha sang con.