Theo đó, người chấp hành hình phạt tù được xem xét hoãn chấp hành hình phạt tù khi có đủ các điều kiện sau: thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp người chấp hành án phạt tù là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (không phân biệt là con để hay con nuôi), nếu họ bị xử phạt tù lần đầu.
Trường hợp người chấp hành án phạt tù không phải về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng và là người duy nhất trong gia đình đang lao động có thu nhập, nếu bắt họ đi chấp hành phạt tù thì gia đình họ sẽ gặp khó khăn đặc biệt trong cuộc sống như: không có nguồn thu nhập nào khác, không có ai chăm nom, nuôi dưỡng… Những người thân thích của họ trong gia đình mà không có khả năng lao động. Hoặc do nhu cầu công vụ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 67 Bộ luật Hình sự là trường hợp cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương cần thiết phải có mặt để họ thực hiện công vụ nhất định và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù ngay thì chưa có người thay thế họ; có nơi cư trú rõ ràng; sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn.
Về thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù được xác định như sau: thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự thì xác định từ khi Tòa án ban hành quyết định cho đến khi người chấp hành phạt tù sức khỏe được phục hồi. Trường hợp, người chấp hành án phạt tù mà lại bị bệnh nặng thì Tòa án xem xét cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi sức khỏe hồi phục.
Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù mà người bị kết án lại có thai hoặc phải tiếp tục nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì vẫn được hoãn cho đến khi đứa con sau cùng đủ 36 tháng tuổi, trừ trường hợp người được chấp hành án lấy lý do này để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Người được hoãn chấp hành án phạt tù là lao động duy nhất trong gia đình hoặc do nhu cầu công vụ có thể được hoãn một lần hoặc nhiều lần, nhưng tổng số thời gian được hoãn tối đa là 3 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Về việc giảm mức hình phạt đã tuyên quy định tại Điều 63 Bộ luật Hình sự, theo Hội đồng Thẩm phán, người đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt lần đầu khi có đủ các điều kiện sau đây: đã chấp hành được một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn; 12 năm đối với hình phạt tù chung thân; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; hối cải, tích cực lao động, học tập. Không vi phạm chế độ, nội quy của cơ sở giam giữ; đã bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự; được cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền đề nghị bằng văn bản xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Về mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt được thực hiện theo quy định tại các khoản 2,3,4,5,6 Điều 63 Bộ luật Hình sự và được xác định như sau: người bị kết án cải tạo không giam giữ thì mỗi lần có thể được giảm từ 3 tháng đến 9 tháng; người bị kết án phạt tù từ 30 năm trở xuống thì mỗi lần có thể được giảm án từ 3 tháng đến 3 năm. Trường hợp được giảm 3 năm phải là người bị kết án phạt tù phải lập công lớn trong lao động, cải tạo và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của cơ sở giam giữ. Việc giảm mức hình phạt chính đã tuyên là tiền thì người thi hành án được giảm thi hành án khi có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự về miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí.
Về miễn chấp hành hình phạt tại điều tại Điều 62 Bộ luật Hình sự, theo Hội đồng Thẩm phán, người bị kết án chưa chấp hành hình phạt tại khoản 2,3 Điều 62 là người đã có quyết định thi hành án phạt tù những được hoãn chấp hành án phạt tù. Chấp hành được một phần hình phạt tiền quy định tại khoản 5, Điều 62 là đã chấp hành được ít nhất một phần tư nghĩa vụ phải thi hành án. Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế cải tạo tốt quy định tại khoản 6 Điều 62 là người chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; hối cải, tích cực lao động, học tập và được UBND cấp xã nơi người chấp hành án cư trú có văn bản xác nhận.