Giảm mức thu lệ phí trước bạ đối với xe ô tô điện chạy pin
Bộ Tài chính cho biết, để phù hợp với nội dung đề nghị bổ sung “tàu ngầm, tàu lặn” thuộc đối tượng chịu lệ phí trước bạ (LPTB) tại điểm 1 nêu trên, Bộ Tài chính đề nghị bổ sung mức thu LPTB đối với tàu lặn, tàu ngầm như các loại tàu thủy khác. Đồng thời, do tàu ngầm, tàu lặn là tài sản có giá trị lớn như tàu bay, do đó đề nghị bổ sung quy định không khống chế mức thu tối đa là 500 triệu đồng/1 tài sản/1 lần trước bạ như tàu bay. Mà mức thu LPTB đối với tàu ngầm, tàu lặn sẽ là 1%.
Đối với ô tô điện chạy pin, Bộ Tài chính đề xuất, những đối tượng này nộp LPTB lần đầu với mức thu bằng 50% mức thu LPTB lần đầu đối với ô tô chạy xăng, dầu có cùng số chỗ ngồi (tương đương từ 5% đến 7,5%) trong vòng 5 năm kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành và nộp LPTB từ lần thứ 2 trở đi với mức thu bằng mức thu đối với ô tô chạy xăng, dầu có cùng số chỗ ngồi (2%).
Bộ Tài chính lý giải, việc giảm mức thu LPTB đối với xe ô tô điện chạy pin sẽ góp phần làm giảm chi phí khi đăng ký sở hữu xe ô tô chạy pin, từ đó kích thích tiêu dùng, khuyến khích người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng xe ô tô chạy pin, đảm bảo phù hợp với xu hướng của thế giới về phát triển, sử dụng xe ô tô thân thiện với môi trường thay thế ô tô sử dụng nhiên liệu hóa thạch, từ đó góp phần làm giảm lượng khí thải phát tán ra môi trường của phương tiện giao thông, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, hướng tới phát triển xanh, bền vững.
Đồng thời, góp phần hỗ trợ các nhà phân phối đẩy mạnh tiêu thụ dòng xe thân thiện với môi trường và góp phần thúc đẩy doanh nghiệp tiếp tục đầu tư sản xuất, lắp ráp ô tô điện chạy pin, hướng đến mục tiêu đưa ngành sản xuất ô tô trong nước trở thành ngành kinh tế chủ lực. Từ đó, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Miễn lệ phí trước bạ với nhiều đối tượng
Về miễn LPTB, Bộ Tài chính đề xuất miễn đối với tài sản hợp nhất cho vợ chồng khi kết hôn hoặc phân chia khi ly hôn. Cụ thể, tại điểm c khoản 16 Điều 9 Nghị định số 140/2016/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Nghị định số 20/2019/NĐ-CP) quy định miễn LPTB đối với: “Tài sản đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng của hộ gia đình khi phân chia tài sản đó theo quy định của pháp luật cho các thành viên hộ gia đình đăng ký lại”.
Bên cạnh đó, thực tế phát sinh trường hợp vợ chồng sau khi kết hôn có nhu cầu hợp nhất lại tài sản thì chưa có hướng dẫn về miễn LPTB hay không. Đồng thời, chưa có quy định về miễn LPTB đối với trường hợp bất động sản do vợ chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng, khi ly hôn được phân chia theo thỏa thuận hoặc do tòa án phán quyết. Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân quy định bất động sản do vợ hoặc chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng, khi ly hôn được phân chia theo thỏa thuận hoặc do tòa án phán quyết thì việc phân chia tài sản này thuộc diện được miễn thuế thu nhập cá nhân.
Bên cạnh đó, theo dự thảo, nhà, đất, tài sản đặc biệt, tài sản chuyên dùng, tài sản phục vụ công tác quản lý chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật được miễn LPTB theo quy định, bao gồm: Các loại nhà, đất chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật; tàu thủy, thuyền, ôtô, xe gắn máy thuộc danh mục tài sản đặc biệt hoặc tài sản chuyên dùng, tài sản phục vụ công tác quản lý chuyên dùng phục vụ vào mục đích quốc phòng, an ninh được Bộ Quốc phòng hoặc được phép của Bộ Quốc phòng hoặc Bộ Công an hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Công an cấp giấy đăng ký phương tiện.
Vẫn theo dự thảo: Nhà ở, đất ở của hộ nghèo; nhà ở, đất ở của đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã, phường, thị trấn thuộc vùng khó khăn, Tây Nguyên; nhà ở, đất ở của hộ gia đình, cá nhân ở các xã thuộc Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa được miễn nộp LPBT theo quy định. Trong đó, hộ nghèo là hộ gia đình mà tại thời điểm kê khai, nộp lệ phí trước bạ có giấy chứng nhận là hộ nghèo do cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (cấp xã) nơi cư trú xác nhận là hộ nghèo theo quy định về chuẩn nghèo của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số là các cá nhân và hộ gia đình, trong đó vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng là người dân tộc thiểu số.