Đổi mới đầu tư xây dựng pháp luật theo Nghị quyết số 66-NQ/TW trong kỷ nguyên mới

(PLVN) - Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị đặt ra yêu cầu đổi mới công tác xây dựng pháp luật trong bối cảnh hiện nay, trong đó có đầu tư cho công tác xây dựng pháp luật. Theo đó, cần các giải pháp cụ thể nhằm hiện thực hóa những mục tiêu đổi mới trong kỷ nguyên số và hội nhập sâu rộng.
TS Trần Văn Duy
TS Trần Văn Duy

Đặt vấn đề

Tổng kinh phí xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trên thực tế hiện nay còn “khiêm tốn” so với tổng chi ngân sách nhà nước (số liệu thống kê cho thấy, kinh phí xây dựng pháp luật của các cơ quan ở Trung ương năm 2022 khoảng 75 tỷ đồng, năm 2023 khoảng 100 tỷ đồng, năm 2024 khoảng 110 tỷ đồng; kinh phí này tại các địa phương hàng năm khoảng 30 - 40 tỷ đồng; kinh phí thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng chương trình luật, pháp lệnh trình Quốc hội tại Bộ Tư pháp khoảng 06 tỷ đồng/năm), so với dự án đầu tư công và rất thấp so với mức đầu tư của các nước trên thế giới [1].

Do đó, trong giai đoạn phát triển mới, đặc biệt là bối cảnh chuyển đổi số toàn diện và hội nhập quốc tế sâu rộng, yêu cầu đối với hệ thống pháp luật trở nên ngày càng cấp thiết. Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” là dấu mốc quan trọng khẳng định vị trí trung tâm của pháp luật trong kiến tạo phát triển, củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Một trong những nội dung cốt lõi của Nghị quyết là yêu cầu “Nhà nước bảo đảm và ưu tiên nguồn lực để đầu tư cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật”. Chúng tôi đi sâu phân tích nội dung này dưới nhiều góc độ, từ thực trạng, thách thức đến đề xuất giải pháp nhằm hiện thực hóa chủ trương trên trong thực tiễn.

Vai trò về đầu tư cho công tác xây dựng pháp luật

Đầu tư trong xây dựng pháp luật không chỉ là tài chính mà còn bao gồm con người, công nghệ, dữ liệu và thể chế. Nghị quyết số 197/2025/QH15 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025 - là điều kiện tiên quyết để bảo đảm chất lượng và hiệu quả của hệ thống pháp luật, từ khâu soạn thảo đến tổ chức thực thi. Trước hết, muốn có luật sát thực tiễn, cần đầu tư cho nghiên cứu chính sách và đánh giá tác động. Đầu tư vào con người là yếu tố cốt lõi. Một đội ngũ cán bộ pháp luật chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản sẽ giúp nâng cao chất lượng văn bản pháp luật. Nhiều nước như Đức, Hàn Quốc đã chuyên nghiệp hóa nghề làm luật từ lâu.

Công nghệ và dữ liệu là công cụ không thể thiếu trong bối cảnh số hóa. Ứng dụng AI, dữ liệu lớn giúp đánh giá nhanh hiệu quả chính sách, giảm cảm tính trong làm luật. Đây là xu hướng mà Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư. Cuối cùng, thể chế vận hành - như quy trình soạn thảo, phối hợp giữa các cơ quan - nếu không được tổ chức chặt chẽ, có đầu tư thích đáng, sẽ dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn pháp luật. Tóm lại, đầu tư cho xây dựng pháp luật là đầu tư cho nền tảng phát triển quốc gia. Đầu tư đúng mức sẽ tạo ra một hệ thống pháp luật chất lượng, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển và hội nhập.

Cơ sở pháp lý định hướng từ Nghị quyết số 66-NQ/TW

Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị là cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng, đặt ra định hướng đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động xây dựng pháp luật. Trong đó, nội dung mang tính đột phá là: Nhà nước đầu tư hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật, có chính sách đặc thù cho đội ngũ cán bộ pháp luật và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, dữ liệu số trong lập pháp.

Cụ thể, Nghị quyết yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật hiện đại dựa trên nền tảng số, thông qua việc đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật như cơ sở dữ liệu pháp lý, hệ thống tương tác công dân trong góp ý luật và công cụ đánh giá tác động chính sách. Đây là bước chuyển từ làm luật thủ công sang quy trình số hóa, minh bạch, hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, việc có chính sách vượt trội cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật thể hiện quan điểm đầu tư vào con người là trung tâm của cải cách.

Điều này phù hợp với yêu cầu nâng cao tính chuyên nghiệp, tính phản biện và đạo đức công vụ trong hoạt động xây dựng pháp luật.

Nghị quyết số 140/NQ-CP của Chính phủ tiếp tục cụ thể hóa các định hướng từ Nghị quyết số 66, nhấn mạnh nhiệm vụ đầu tư nguồn lực, cải tiến thể chế, hoàn thiện quy trình lập pháp và tăng cường phối hợp liên ngành. Tóm lại, hai Nghị quyết này đã tạo ra khuôn khổ chính sách rõ ràng để đẩy mạnh đầu tư trong lĩnh vực xây dựng pháp luật - cả về hạ tầng, nhân lực và công nghệ - hướng đến một hệ thống pháp luật hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.

Thực trạng đầu tư cho công tác xây dựng pháp luật hiện nay

Thứ nhất, tình hình phân bổ và sử dụng ngân sách: Hiện nay, ngân sách dành cho hoạt động xây dựng pháp luật vẫn còn hạn chế, chủ yếu được gộp chung trong chi hành chính hoặc chi hoạt động chuyên môn, mà không có một cơ chế phân bổ riêng, ổn định và có tính kế hoạch trung hạn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nghiên cứu chính sách, việc tổ chức tham vấn, đánh giá tác động cũng như tiến độ soạn thảo và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Kinh phí dành cho xây dựng pháp luật ở nhiều Bộ, ngành, địa phương còn rất thấp; chưa bảo đảm cho việc thực hiện đầy đủ, bài bản quy trình xây dựng văn bản. Điều này phản ánh một thực trạng là công tác làm luật nhiều khi bị xem nhẹ về mặt đầu tư, chủ yếu dựa vào nỗ lực cá nhân và tận dụng nguồn lực sẵn có.

Ví dụ, trong giai đoạn 2021 - 2023, một số cơ quan được giao chủ trì soạn thảo các dự án luật lớn như Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Giao thông đường bộ… đã nhiều lần kiến nghị bổ sung kinh phí cho các hoạt động khảo sát, tổ chức hội thảo, thuê chuyên gia độc lập, nhưng việc phân bổ ngân sách vẫn gặp nhiều vướng mắc do thiếu quy định rõ ràng. Do đó, cần có cơ chế tài chính minh bạch, riêng biệt cho hoạt động lập pháp, tránh tình trạng làm luật theo kiểu tiết kiệm đến mức tối đa, ảnh hưởng đến chất lượng văn bản.

Tình trạng thiếu hụt kinh phí cũng khiến cho việc ứng dụng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu pháp lý, công cụ đánh giá chính sách hiện đại không được triển khai đồng bộ. Trong khi đó, việc chuyển đổi số trong xây dựng pháp luật lại là một trong những định hướng quan trọng được nêu rõ trong Nghị quyết số 66-NQ/TW. Nếu không có sự đầu tư ngân sách đủ mạnh và có kế hoạch dài hạn, công tác xây dựng pháp luật sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quản trị quốc gia hiện đại, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số.

Thứ hai, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật lạc hậu: Một trong những rào cản lớn đối với công tác xây dựng pháp luật hiện nay là tình trạng cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật còn lạc hậu, thiếu đồng bộ. Nhiều cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản vẫn làm việc chủ yếu trên nền tảng thủ công, thiếu các phần mềm chuyên dụng để hỗ trợ phân tích chính sách, đánh giá tác động, tổng hợp ý kiến hoặc dự báo pháp lý.

Hệ thống kho dữ liệu pháp lý quốc gia hiện chưa được tích hợp đầy đủ và còn phân tán giữa nhiều cơ quan. Dữ liệu về tình hình thực thi pháp luật, thông tin phản hồi từ người dân, doanh nghiệp chưa được thu thập và phân tích một cách khoa học. Điều này khiến khả năng phản ứng chính sách nhanh, chính xác và linh hoạt bị hạn chế. Ví dụ, trong quá trình sửa đổi Luật Đầu tư, các cơ quan đã gặp khó khăn trong việc rà soát hàng trăm văn bản liên quan vì thiếu một hệ thống dữ liệu pháp lý thống nhất, khiến tiến độ bị kéo dài và tính đồng bộ của hệ thống pháp luật bị đe dọa.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng pháp luật mới chỉ dừng ở mức hỗ trợ soạn thảo văn bản, chưa hình thành được hệ sinh thái lập pháp số hóa. Ngoài ra, nhiều đơn vị thiếu thiết bị cơ bản như máy chủ bảo mật hoặc đường truyền ổn định, làm giảm hiệu quả phối hợp trong quá trình xây dựng pháp luật. Nếu không có đầu tư mạnh mẽ cho hạ tầng kỹ thuật số, công tác xây dựng pháp luật sẽ tiếp tục bị chậm nhịp với thực tiễn quản trị hiện đại, khó đáp ứng yêu cầu cải cách thể chế và chuyển đổi số quốc gia.

Thứ ba, thiếu cơ chế đặc thù cho đội ngũ cán bộ: Cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật đang chịu nhiều áp lực về chuyên môn, tiến độ và trách nhiệm pháp lý, nhưng lại chưa được hưởng cơ chế đãi ngộ tương xứng. Phần lớn làm việc trong môi trường thu nhập trung bình, chế độ khen thưởng hạn chế, chưa có ưu tiên đặc thù như một số lĩnh vực kỹ thuật, tư pháp hoặc ngoại giao. Ngoài ra, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu còn mang tính hình thức, thiếu liên kết với thực tiễn lập pháp hiện đại.

Theo Bộ Nội vụ, số lượng cán bộ có chuyên môn sâu về lập pháp, phân tích chính sách hay đánh giá tác động tại nhiều địa phương còn rất hạn chế, đặc biệt là ở cấp huyện và tỉnh. Ví dụ, trong quá trình xây dựng Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, một số cán bộ tham gia soạn thảo cho biết họ chưa từng được đào tạo bài bản về dữ liệu số, bảo mật hay pháp luật quốc tế liên quan, dẫn đến lúng túng trong việc tiếp cận vấn đề mới. Nghị quyết số 66-NQ/TW đã xác định rõ: “Phải có chính sách đặc thù, vượt trội cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật; ưu tiên thu hút, trọng dụng nhân tài pháp lý”.

Tuy nhiên, đến nay việc thể chế hóa nội dung này và triển khai thực hiện vẫn còn chậm, chưa tạo động lực mạnh để phát triển nguồn nhân lực pháp luật chuyên nghiệp. Nếu không sớm có cơ chế đặc thù, đội ngũ cán bộ pháp luật sẽ khó đáp ứng yêu cầu cải cách thể chế sâu rộng và chất lượng xây dựng pháp luật sẽ khó nâng cao một cách bền vững.

Gợi mở một số giải pháp triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị

Thứ nhất, bảo đảm nguồn lực tài chính ổn định, có tính dài hạn: Xây dựng cơ chế phân bổ ngân sách riêng cho công tác xây dựng pháp luật, không gộp vào chi thường xuyên.

Thứ hai, hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật phục vụ công tác pháp luật. Đầu tư cơ sở dữ liệu pháp luật mở, tích hợp, liên thông giữa các cơ quan. Triển khai nền tảng lập pháp điện tử toàn diện từ khâu dự thảo, lấy ý kiến, đến thẩm định và đánh giá tác động chính sách. Tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.

Thứ ba, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật chất lượng cao. Ban hành cơ chế đãi ngộ đặc thù đối với chuyên gia, cán bộ pháp luật, tương xứng với tính chất phức tạp và áp lực công việc. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu và thường xuyên, có liên kết với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp luật trong và ngoài nước và đầu tư cho các học viện, viện nghiên cứu lập pháp trở thành trung tâm đào tạo, tư vấn chính sách pháp luật chuyên sâu.

Thứ tư, tăng cường phối hợp liên ngành và giám sát thực hiện. Phân rõ đầu mối chịu trách nhiệm chính trong từng khâu của quy trình lập pháp (soạn thảo, thẩm định, phản biện…). Thiết lập cơ chế đánh giá hiệu quả đầu tư cho hoạt động lập pháp, gắn với chất lượng và tiến độ văn bản.

Thứ năm, khuyến khích sự tham gia của xã hội và hợp tác quốc tế. Mở rộng kênh tham vấn công chúng trong quá trình xây dựng pháp luật, qua cổng thông tin điện tử hoặc nền tảng số. Học tập kinh nghiệm quốc tế trong số hóa lập pháp, xây dựng quỹ tài chính pháp lý, và đào tạo cán bộ (như mô hình của Estonia, Anh, Hàn Quốc). Tăng cường hợp tác quốc tế trong chia sẻ dữ liệu, công nghệ và hỗ trợ kỹ thuật lập pháp.

Thứ sáu, đẩy mạnh truyền thông và nâng cao nhận thức pháp lý. Xây dựng chương trình truyền thông phổ biến chính sách pháp luật hiện đại, thân thiện, tận dụng mạng xã hội và các nền tảng số. Góp phần xây dựng văn hóa thượng tôn pháp luật, gắn trách nhiệm của người dân, doanh nghiệp vào quá trình hoàn thiện chính sách./.

***

[1] Minh Trí (2025), Đầu tư cho công tác xây dựng chính sách, pháp luật là đầu tư cho phát triển, truy cập tại https://danchuphapluat.vn/dau-tu-cho-cong-tac-xay-dung-chinh-sach-phap-luat-la-dau-tu-cho-phat-trien, truy cập lúc 14h ngày 25 tháng 5 năm 2025

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Chính trị (2025), Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”, Hà Nội.

2. Chính phủ (2025), Nghị quyết số 140/NQ- CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW, Hà Nội.

3. Minh Trí (2025), Đầu tư cho công tác xây dựng chính sách, pháp luật là đầu tư cho phát triển, truy cập tại https://danchuphapluat.vn/dau-tu-cho-cong-tac-xay-dung-chinh-sach-phap-luat-la-dau-tu-cho-phat-trien, truy cập lúc 14h ngày 25 tháng 5 năm 2025.

4. Quốc hội (2025), Nghị quyết số 197/2025/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, Hà Nội.

Đọc thêm