Thể chế trong Kỷ nguyên mới

Đột phá thể chế, pháp luật – Đòn bẩy để Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

(PLVN) - Trong điều kiện đất nước hội nhập sâu rộng và cách mạng công nghệ 4.0, việc hoàn thiện thể chế, xây dựng hệ thống pháp luật chất lượng cao được khẳng định là nền tảng then chốt cho mọi thành tựu phát triển.
TS Trần Văn Khải.
TS Trần Văn Khải.

Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ, “thể chế, pháp luật có chất lượng, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân là yếu tố hàng đầu quyết định thành công của mỗi quốc gia”. Thật vậy, Việt Nam đã từng bước hình thành một hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, công khai, minh bạch, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ an ninh, quốc phòng. Tuy nhiên, bối cảnh mới đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới căn bản tư duy lập pháp, phát huy các đột phá đã nêu, để dẫn dắt đất nước vươn lên.

Tầm chiến lược của Nghị quyết 66-NQ/TW và bài viết quan trọng của Tổng Bí Tô Lâm “Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình”: Ngày 30/4/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 66-NQ/TW về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” – một nghị quyết chuyên đề đặc biệt quan trọng với nhiều quyết sách mang tính chiến lược. Mục tiêu chính của Nghị quyết là tạo dựng một “xã hội thực sự dân chủ, bình đẳng, an toàn, minh bạch; nhân dân thực sự làm chủ; quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đất nước; nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Liên quan đến chủ đề này, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết quan trọng với tiêu đề “Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình”. Theo đó, Tổng bí thư đã khẳng định xây dựng pháp luật chính là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế, trở thành một nhiệm vụ trọng tâm trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nghị quyết xác định loạt mục tiêu cụ thể: đến năm 2025 khắc phục căn bản các “điểm nghẽn” do quy định pháp luật gây ra; đến 2027 hoàn thiện cơ sở pháp lý đồng bộ cho bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền 3 cấp; đến 2028 hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, đưa môi trường đầu tư của Việt Nam vào nhóm 3 nước hàng đầu ASEAN. Xa hơn nữa, hướng đến năm 2045, Việt Nam có hệ thống pháp luật “chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực quốc tế, phù hợp thực tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh… bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân”, cùng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Đây là tầm nhìn chiến lược thể hiện niềm tin sâu sắc của Đảng rằng đổi mới pháp luật là con đường tất yếu để đất nước phát triển thịnh vượng, dân chủ và bền vững.

Tư duy đột phá trong xây dựng pháp luật: Nghị quyết 66-NQ/TW và bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm đều nhấn mạnh phải đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, vừa đáp ứng nghiêm túc yêu cầu quản lý, vừa khuyến khích sáng tạo và giải phóng sức sản xuất. Cụ thể, pháp luật phải bám sát thực tiễn Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, đảm bảo tính hệ thống và mở đường, khơi thông mọi nguồn lực cho phát triển. Theo đó, thể chế, pháp luật phải trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế hai con số và cải thiện đời sống nhân dân. Đặc biệt, Nghị quyết đòi hỏi “dứt khoát từ bỏ tư duy ‘không quản được thì cấm’” trong chính sách pháp luật. Thay cho cách tiếp cận hạn chế, giáo điều, chúng ta cần pháp luật mang tính ổn định nhưng đơn giản, dễ thực hiện, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm và phát huy vai trò của đạo đức, quy tắc nghề nghiệp trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Như Tổng Bí thư đã khẳng định, không thể thỏa hiệp với bất kỳ hạn chế, bất cập nào trong thiết kế chính sách, soạn thảo pháp luật hoặc tổ chức thực thi – mỗi quy định pháp lý đều phải tạo thuận lợi tối đa cho sáng tạo và tăng trưởng.

Trên cơ sở nội dung Nghị quyết 66-NQ/TW và bài viết quan trọng của Tổng Bí thư Tô Lâm, trên cơ sở nhận thức chiến lược nói trên, tác giả bài viết đề xuất cụ thể những định hướng Chương trình xây dựng pháp luật sắp tới theo 05 nhóm nội dung lớn sau đây:

Một là, hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư – kinh doanh: Nhanh chóng sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các luật quan trọng như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, bảo đảm môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch. Cắt giảm quy định hành chính không cần thiết, thống nhất cơ chế đặc thù để thu hút đầu tư công nghệ cao và khởi nghiệp sáng tạo. Mục tiêu là “đưa môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN” như Nghị quyết 66 đề ra, huy động tối đa nguồn lực cho phát triển.

Hai là, cải cách tổ chức bộ máy nhà nước: Sớm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện mô hình chính quyền 3 cấp và tinh gọn bộ máy theo Nghị quyết 18, 19 của Trung ương. Cần sửa đổi Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, Luật Cán bộ – công chức, Luật Viên chức và Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (nếu có), đảm bảo phân cấp, phân quyền rõ ràng; đồng thời hoàn thiện Luật Bầu cử, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức HĐND, UBND để nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả phục vụ nhân dân. Các đề án sắp xếp, tinh giản biên chế phải được thể chế hóa thành chính sách, cơ chế pháp lý thống nhất, tránh chồng chéo, “nhiều khúc quanh” như đã từng cản trở cải cách.

Ba là, pháp luật chuyển đổi số, khoa học – công nghệ: Đẩy nhanh ban hành các luật trọng điểm trong kỷ nguyên số và đổi mới sáng tạo. Trước hết là Luật Chuyển đổi số quốc gia và Luật Dữ liệu quốc gia nhằm thống nhất, đồng bộ hóa dữ liệu quốc gia, phục vụ Chính phủ số và phát triển kinh tế số. Cần sớm hoàn thiện Luật Công nghệ cao (hoặc Luật Công nghiệp công nghệ số đang trình), Luật Khoa học, Công nghệ và chuyển đổi số (sửa đổi), Luật Đổi mới sáng tạo và Luật Chuyển giao công nghệ để thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo; đồng thời sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ, Luật bảo vệ bí mật kinh doanh cho phù hợp. Việc này không chỉ hỗ trợ mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế, mà còn giải quyết nhu cầu thực tiễn khi “cuộc cách mạng khoa học – công nghệ” đòi hỏi khung pháp lý mới.

Bốn là, pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân: Triển khai nhanh các luật liên quan để thực thi đầy đủ các quyền cơ bản của người dân. Đề xuất soạn thảo Luật Bảo vệ Quyền con người (nếu chưa có) để cụ thể hóa các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Hoàn thiện Luật Dân sự (bổ sung quyền nhân thân, tài sản, danh dự, tự do cá nhân), Luật Hôn nhân và gia đình (bảo vệ quyền trẻ em, người khuyết tật), Luật Báo chí, Luật Tiếp cận thông tin để tăng cường minh bạch. Cần sửa đổi Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và các quy định xử lý vi phạm hành chính để bảo đảm người dân giám sát, phản biện chính sách. Mọi quy định pháp luật phải tôn trọng, bảo vệ hiệu quả quyền con người và quyền công dân như Nghị quyết 66-NQ/TW yêu cầu, tạo dựng niềm tin của người dân vào công lý và quyền lợi chính đáng của mình.

Năm là, pháp luật tư pháp – bổ trợ tư pháp: Đẩy mạnh cải cách tư pháp theo hướng hiện đại, hiệu quả. Sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án và Luật Tổ chức Viện Kiểm sát để nâng cao năng lực xét xử và kiểm soát việc thực thi pháp luật. Hoàn thiện Luật Thi hành án dân sự, Luật Tố tụng Dân sự – Hình sự – Hành chính, Luật Luật sư, Luật Hòa giải và các luật bổ trợ tư pháp như Luật Trọng tài, Luật Giám định tư pháp… Đặc biệt, đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tố tụng và thi hành án, giảm tải thủ tục; nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư để đảm bảo công bằng, minh bạch trong xét xử. Qua đó, tư pháp thực sự trở thành “người bảo vệ quyền con người, quyền công dân” và góp phần tạo dựng môi trường phát triển bình yên cho quốc gia.

Đánh giá tổng thể, lập pháp theo quan điểm lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm và Nghị quyết 66-NQ/TW thể hiện tầm nhìn chiến lược vượt trội. Qua việc tập trung đổi mới toàn diện khâu lập pháp và thi hành pháp luật, chúng ta gửi gắm niềm tin vững chắc rằng một Việt Nam phồn vinh, dân chủ, bền vững sẽ được kiến tạo trên nền tảng thể chế và pháp luật chất lượng cao. Tinh thần cải cách mạnh mẽ, kiên quyết “nói không” với mọi điểm nghẽn trong thể chế sẽ là động lực để toàn Đảng, toàn dân đồng sức đồng lòng thực hiện khát vọng vươn lên của dân tộc. Đổi mới pháp luật chính là con đường tất yếu, không thể thiếu, để đưa Việt Nam hội nhập thành công và thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.

TS Trần Văn Khải

Phó Bí thư Đảng uỷ, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

Đọc thêm