Tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) Vũ Đại Thắng giải thích về báo cáo thẩm định dự án đường sắt tốc độ cao gửi Thủ tướng vào đầu tháng 6.
Theo ông Thắng, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) đã đưa ra nhiều kịch bản phát triển đường sắt tốc độ cao, trong đó có phương án tốc độ 350 km/h với tổng vốn đầu tư 58,7 tỷ USD. Nhưng qua xem xét, Bộ KH&ĐT thấy rằng kịch bản đường sắt tốc độ thấp hơn (200 km/h) khả thi hơn kịch bản tốc độ cao (350 km/h) về nguồn vốn, trần nợ công... Vì thế Bộ đã báo cáo Thủ tướng, đề nghị thành lập Hội đồng thẩm định xem xét cụ thể các kịch bản, trong đó có kịch bản tổng vốn đầu tư dự án chỉ khoảng 26 tỷ USD áp dụng cho đường sắt tốc độ 200 km/h.
“Không có chuyện Bộ KH&ĐT đưa ra phương án cắt giảm tổng mức đầu tư dự án mà Bộ GTVT đề xuất. Chúng tôi đưa ra kịch bản khác nên công nghệ và điều chỉnh tổng mức đầu tư khác nhau”, ông Thắng nói và cho biết Hội đồng thẩm định sẽ xin ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học để có phương án phù hợp trình Thủ tướng.
Do đường sắt tốc độ cao là dự án phức tạp, có nhiều tranh cãi, ông Thắng cho biết Hội đồng thẩm định sẽ phải thuê tư vấn nước ngoài thẩm tra nên thời gian thẩm định sẽ phải kéo dài hơn. Dự kiến Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao vào kỳ họp tháng 5/2020.
Lãnh đạo Bộ KH&ĐT chia sẻ, cá nhân rất mong muốn Việt Nam có tuyến đường sắt tốc độ cao như của Nhật Bản, nhưng nhìn lại từ năm 2010 đến năm 2019, GDP tăng lên 250 tỷ USD, trong khi tổng vốn đầu tư của dự án đường sắt tốc độ cao chiếm gần 1/4 GDP. Ngoài ra, khả năng tiếp cận công nghệ của Việt Nam sau 10 năm vẫn không khác trước đây. “Chúng ta mới chủ động được xi măng, sắt đá sỏi và con người, còn lại chưa có gì nhiều hơn so với năm 2010”, ông Thắng nói.
Tại hội nghị, GS Lã Ngọc Khuê, nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT bảo lưu ý kiến xây dựng tuyến đường sắt mới khổ đường ray 1,435 m, chạy chung tàu hàng và tàu khách với tốc độ 200 km/h, bởi nếu nâng công suất 24 đôi tàu trên khổ đường 1m trong tương lai thì vẫn không thể cạnh tranh được với đường bộ. Trong khi đó, nhiều nước trong khu vực đã nâng tốc độ đường sắt như Thái Lan, Malaysia khiến chi phí vận chuyển hàng hóa giảm, cạnh tranh mạnh với Việt Nam.
Ngoài ra, GS Khuê cho rằng đầu tư đường sắt 200 km/h sẽ giúp doanh nghiệp trong nước tiếp cận được công nghệ hơn so với tàu tốc độ trên 300 km/h. “Đường sắt đô thị mà chúng ta còn ngồi chơi xơi nước, thì đường sắt tốc độ cao không thể chuyển giao công nghệ được, chi phí mua sắm phương tiện và vận hành khai thác rất lớn”, ông Khuê nói.
Đồng quan điểm, ông Lê Bộ Lĩnh, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường, nhấn mạnh cần phát triển vận tải hàng hóa đường sắt để cải thiện chi phí logistic. Khả năng đáp ứng vận tải hàng không còn rất lớn, nếu 26 sân bay được kết nối tốt thì còn tăng trưởng cao nên hành khách đi Bắc - Nam sẽ không đi tàu tốc độ cao. “Nhu cầu chưa bức xúc để đầu tư đường sắt cao tốc chạy riêng. Chúng ta nên kết hợp vận chuyển hàng hóa và hành khách với tốc độ trung bình 200 km/h”, ông Lĩnh nêu quan điểm.
Ông Nguyễn Chỉ Sáng, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần tính toán để trong 10 năm phải có đường sắt tốc độ cao, thời gian đầu tư phải đưa vào luận giải để chọn phương án. Với góc nhìn doanh nghiệp, ông Sáng khẳng định nếu xây dựng tàu tốc độ 200 km/h thì các doanh nghiệp trong nước sẽ làm được toa tàu, đường ray, điện động lực, xây dựng hạ tầng... không phải phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài.
Trước những ý kiến “bênh vực” kịch bản xây dựng đường sắt tốc độ 200 km/h, ông Phạm Hữu Sơn, Tổng Giám đốc TEDI, đại diện liên danh tư vấn phương án đề xuất đường sắt tốc độ 350 km/h, cho biết tư vấn bám sát chiến lược phát triển đường sắt Bắc - Nam của đất nước. Giai đoạn đầu khai thác tàu tốc độ 200 km/h, giai đoạn sau 350 km/h.
“Chiến lược đặt ra đến năm 2050 nên các chuyên gia không nên xem xét với con mắt hiện tại. Đơn vị tư vấn đã ghi nhận xu hướng nhiều nước trên thế giới là tách tàu hàng và tàu khách, không chỉ chạy 300 km/h mà còn đến 400-500 km/h”, ông Sơn nói và cho rằng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam gắn liền 20 tỉnh, thành, không chỉ phục vụ hai thành phố lớn Hà Nội, TP HCM. Thế giới đã chứng minh cự ly 300-800 km, đường sắt tốc độ cao “hoàn toàn có thể cạnh tranh với hàng không”.
Ngoài ra, với công suất khai thác 25 đôi tàu đến năm 2050 trên đường sắt khổ 1m được nâng cấp, tương ứng 12 triệu tấn/năm, cùng với 150 đôi tàu khách trên tuyến đường sắt tốc độ cao được xây mới, đường sắt sẽ đảm bảo năng lực đáp ứng cho tương lai. “Đầu tư đường sắt tốc độ cao là cơ hội trả lại thị phần cho ngành đường sắt, đảm bảo tính cạnh tranh với các loại hình khác”, ông Sơn nói.
Trước đó, Liên danh tư vấn TEDI - TRICC - TEDIS đã nghiên cứu 3 phương án phát triển đường sắt Bắc - Nam:
Phương án 1: Nâng cấp khổ đường 1m để chạy tàu khách và tàu hàng.
Phương án 2: Nâng cấp đường 1m thành khổ đường đôi 1,435 m chạy chung cả tàu khách tốc độ 200-300 km và tàu hàng chạy 120-160 km/h.
Phương án 3: Nâng cấp khổ đường 1m để chạy tàu hàng và xây dựng mới đường sắt tốc độ cao 350 km/h trên khổ đường đôi 1,435 m.
Sau khi xem xét, Bộ GTVT đã trình Thủ tướng báo cáo nghiên cứu khả thi theo phương án 3, lộ trình xây dựng theo 2 giai đoạn với tổng vốn đầu tư 58,7 tỷ USD.
Trong văn bản gửi Thủ tướng về dự án đường sắt cao tốc trục Bắc - Nam đầu tháng 6, Bộ KH&ĐT cho rằng, các chuyên gia nước ngoài ước tính tổng vốn đầu tư dự án này chỉ khoảng 26 tỷ USD áp dụng cho đường sắt tốc độ 200 km/h. Phương án này khả thi hơn đường sắt cao tốc 350 km/h.