Cháu bé là con út trong gia đình có 3 anh chị em. Cách đây 6 năm, cha mẹ của em đã một lần mất con khi mới 7 tháng tuổi nhưng gia đình không xác định được nguyên nhân. Năm 2018, bé chào đời và chỉ 1 ngày sau sinh đã xuất hiện những nốt xuất huyết ở thành bụng.
Sau khi khám và làm các xét nghiệm chẩn đoán, các bác sĩ BV Sản Nhi Quảng Ninh chuyển trẻ lên BV Nhi TW. Tại đây, cháu được điều trị ở Khoa Sơ sinh 1 tuần. Trong thời gian này, các bác sĩ nhận thấy các chỉ số xét nghiệm của cháu vẫn trong giới hạn bình thường nên cho về.
Tháng 9/2019, khi tái khám lần 2, qua các xét nghiệm, các bác sĩ nhận thấy tiểu cầu thấp, có dấu hiệu xuất huyết ngoài da, đi ngoài ra máu. Nghi ngờ cháu có thể mắc bệnh di truyền hiếm gặp, các bác sĩ đã chỉ định cho bệnh nhi thực hiện xét nghiệm gene, cho kết quả cháu mắc bệnh hiếm Wiskott-Aldrich.
Theo các tài liệu y văn, bệnh nhân mắc hội chứng Wiskott-Adlrich thường không sống quá 5 năm. Trẻ thường tử vong do các biến chứng nhiễm khuẩn, xuất huyết não hoặc các bệnh ác tính. Con đường duy nhất có thể cứu bệnh nhi này là ghép tủy. Đây là liệu pháp điều trị kỹ thuật cao, đưa tế bào gốc tạo máu từ người khỏe mạnh vào cơ thể bệnh nhân để thay thế cho tế bào gốc bị tổn thương hoặc bất thường.
Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê, người chăm sóc và điều trị trực tiếp cho bé chia sẻ, các bác sĩ chuyên khoa Miễn dịch - Dị ứng - Khớp đã theo dõi, điều trị liên tục cho bé từ khi bé được chẩn đoán chính xác bệnh, sau đó tư vấn cho gia đình bệnh nhân hướng điều trị bằng ghép tủy. May mắn, qua xét nghiệm sàng lọc, các bác sĩ đã phát hiện bé có chị gái là người có nguồn tủy phù hợp hoàn toàn.
Ngày 26/2 bệnh nhi được các bác sĩ tiến hành ghép tủy theo phác đồ điều trị của Hiệp hội Ghép tủy châu Âu. Trước ghép tủy, cháu phải trải qua 1 tuần điều trị hóa chất để diệt tủy.
Nhờ quá trình chuẩn bị trước ghép kĩ càng và sự phối hợp nhịp nhàng của cả ekip thực hiện, bệnh nhân không gặp các tai biến nặng sau ghép. Các biến chứng sau ghép như sốt giảm bạch cầu hạt, viêm niêm mạc, ghép chống chủ… đều được phát hiện sớm và kiểm soát tốt.
Sau khoảng thời gian hồi hộp, lo lắng, ngày thứ 21 sau ca ghép, gia đình vui mừng khi được các bác sĩ thông báo, tủy mới đã phát triển trong cơ thể bệnh nhi đạt đến 87%. Các xét nghiệm cũng cho thấy các chỉ số máu của trẻ như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu đạt chỉ số bình thường.
Ngày thứ 33 sau ghép, kết quả xét nghiệm tủy mới trong cơ thể cháu đã đạt 100%. Điều này có nghĩa ca ghép đã thành công.
Ghép tủy thành công trên bệnh nhi mắc Wiscott-Aldrich đánh dấu bước ngoặt trong kỹ thuật điều trị của các bác sĩ BV Nhi Trung ương. Ghép tủy (ghép tế bào gốc) đã được ứng dụng thành công tại BV Nhi cho nhiều bệnh nhân bị suy tủy, Thalasemia, suy giảm miễn dịch bẩm sinh và hiện nay là bệnh Wiscott-Andrich.
Theo TS.BS Lê Quỳnh Chi, Trưởng khoa Miễn dịch - Dị ứng - Khớp, số bệnh nhi mắc bệnh này hiện đang điều trị tại bệnh viện là 11 cháu, trong đó bệnh nhi nhỏ tuổi nhất là 5 tháng, lớn nhất là 7 tuổi. Phần lớn những bệnh nhân này thường có rất nhiều biến chứng của bệnh như di chứng xuất huyết não, tình trạng viêm da cơ địa nặng, tổn thương mắt… và đều có chỉ định ghép tủy.
Trẻ mắc Wiskott-Aldrich sau khi được ghép tủy sẽ hoàn toàn khỏi bệnh và có cuộc sống như những đứa trẻ bình thường khác. Tuy nhiên, để một ca ghép tủy thành công, bệnh nhi và gia đình cần chuẩn bị tâm lý vượt qua rất nhiều khó khăn.
Một trong những trở ngại lớn nhất là kinh phí điều trị. Chi phí cho một ca ghép tủy là rất lớn, BHYT chỉ chi trả một phần. Một ca ghép tủy với chi phí hàng trăm triệu đồng, có thể lên đến một hai tỷ đồng là quá sức với nhiều gia đình có con bị bệnh suy giảm miễn dịch phải đeo đuổi điều trị trong thời gian dài. Nếu như có sự chung tay hỗ trợ về chi phí của các cấp, bộ, ban, ngành trong xã hội sẽ giảm được gánh nặng cho bệnh nhân và gia đình.
Là bác sĩ tiếp xúc trực tiếp với các bệnh nhi mắc bệnh, bác sĩ Chi chia sẻ, mong muốn của người bệnh cũng là ước mong của các bác sĩ là các quỹ bảo hiểm y tế cùng với các tổ chức xã hội nghiên cứu các chính sách hỗ trợ về y tế cho đối tượng bệnh nhân mắc bệnh hiếm giảm bớt gánh nặng điều trị cho gia đình bệnh nhân.