Ông Nguyễn Công Minh - Trung tâm Quy hoạch và Quản lý tổng hợp vùng duyên hải khu vực phía Bắc - đưa ra cảnh báo về vấn đề ô nhiễm nguồn thải từ lục địa mà chúng ta chưa có giải pháp hữu hiệu xử lý.
Nếu không có giải pháp kịp thời thì chúng ta có biển cũng như không khi đa dạng sinh học bị hủy hoại do nguồn chất thải.
Vùng ven biển trên đà suy thoái
Chỉ tính riêng TP HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, Thừa Thiên - Huế, một năm, các chất thải sinh hoạt thải ra biển tới 367 nghìn tấn COD, 215, 2 nghìn tấn BOB, 39,2 nghìn tấn N tổng số (N-T), 11,1 nghìn tấn P tổng số (P-T) và khoảng 848,7 nghìn tấn chất rắn lơ lửng (TSS). Nguồn thải công nghiệp thải ra biển 316 nghìn tấn COD, 119,1 nghìn tấn BOD, 42,9 nghìn tấn N – T, 5,2 nghìn tấn P- T và 218 nghìn tấn TSS. Trong đó, các tỉnh thuộc loại thải trên 20 nghìn tấn COD/ năm trở lên có Bà Rịa - Vũng Tàu, TP HCM, Cà Mau, Khánh Hòa, Kiên Giang, Quảng Ninh. Nguồn thải nông nghiệp hàng năm thải ra biển 2,21 triệu tấn COD, 1,49 triệu tấn BOD và 15,5 nghìn tấn hóa chất bảo vệ thực vật, 6,4 triệu tấn là vật chất hữu cơ và thức ăn thừa (đó là chỉ tính riêng các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Bình Định, Quảng Nam, Hà Tĩnh).
Theo nhận định của các chuyên gia, vùng biển chúng ta đang trên đà suy thoái tính đa dạng sinh học cao và diễn ra sôi động các hoạt động kinh tế, cần được ưu tiên phục hồi đó là vùng đất ngập nước ven biển Việt Nam. Bởi lẽ, vùng đất ngập nước có rất nhiều chức năng đặc biệt quan trọng như: chức năng điều tiết nguồn nước ngầm; lắng đọng trầm tích, độc tố; tích lũy chất dinh dưỡng, điều hòa vi khí hậu, hạn chế lũ lụt, sản xuất sinh khối, duy trì đa dạng sinh học và chắn sóng, gió, bão, ổn định bờ chống xói lở và hạn chế sóng thần.
Hiện, vùng đất ngập nước quan trọng này có 25% được sử dụng mục đích nuôi trồng thủy sản. Tuy vậy, hiện vẫn chưa có quy chế quản lý đất ngập nước riêng phù hợp với đặc thù của từng loại hình đất ngập nước. Điều này dẫn tới việc khai thác sử dụng nguồn tài nguyên đất ngập nước ven biển đang diễn ra một cách ồ ạt, thiếu quy hoạch. Việc người dân tự ý khai hoang để nuôi trồng thủy sản, mở rộng các khu dân cư, đô thị hóa, khu công nghiệp, phát triển giao thông phá vỡ quy hoạch… làm cho diện tích đất ngập nước tự nhiên bị thu hẹp, tài nguyên suy giảm, xói lở, bồi tụ, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng đặc biệt là ô nhiễm dầu và kim loại nặng.
Ngoài ra, việc bảo vệ các loài san hô, thảm cỏ biển, nơi cư trú của các loài và đa dạng sinh học cũng đang rất cần có những giải pháp bảo vệ hữu hiệu. Bởi lẽ, trong vòng 10 – 15 năm gần đây, số lượng san hô, thảm cỏ biển đã giảm tới 50% trên vùng biển Việt Nam (theo điều tra thực tế và chụp ảnh vệ tinh) do khai thác quá mức và ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu làm nhiệt độ nước biển tăng…
Xử lý nguồn thải ô nhiễm vùng bờ
Trước sự cấp bách về ô nhiễm vùng bờ và nguy cơ lan rộng, phá vỡ đa dạng sinh học, theo các chuyên gia nghiên cứu biển, cần có giải pháp quản lý nguồn thải từ các lưu vực sông ra biển; quản lý vùng đất ngập nước bằng quy hoạch cụ thể và tích cực tham gia các điều ước quốc tế trong lĩnh vực bảo tồn thiên nhiên có liên quan đến đất ngập nước vùng bờ.
Đối với việc bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn cần củng cố đầu mối quốc gia mạng lưới các tỉnh ven biển, đảo có rừng ngập mặn, tăng cường hợp tác quốc tế, ứng dụng khoa học công nghệ trồng rừng ngập mặn ở những nơi khó trồng, đồng thời có cơ chế giám sát biến động rạn san hô, thảm cỏ biển để có chính sách tác động kịp thời. Các nhà khoa học biển Việt Nam cho rằng, mặc dù chúng ta đã thực hiện khá nhiều dự án, chương trình hành động cụ thể, tuy vậy, do tính chất dàn trải nên mọi hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển chưa thực sự được giải quyết triệt để.
Sau khi lấy ý kiến của giới chuyên môn, tới đây sẽ đệ trình một dự án lên các cơ quan có liên quan. Đây là một chương trình hành động mang tính “đảo ngược” xu thế ô nhiễm biển hiện nay. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện nay là quản lý và xử lý nguồn thải làm ô nhiễm môi trường vùng bờ...