Mặc dù đã có kết luận cuối cùng của VKSNDTC về vụ việc nhưng dư âm của nó vẫn còn khiến những người làm công tác tố tụng suy nghĩ. Vụ án này cũng được coi là mẫu đối với nhiều cán bộ thẩm phán, những người đưa ra các phán quyết công lý đảm bảo việc xét xử được công bằng, đúng người, đúng tội.
Vụ án xi-lanh
Hồi 8h30 ngày 1/7/2009, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an TP.Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại tổ 25, phường Cam Giá nhận được tin báo của nhân dân, tại nhà Đặng Thị Mai Anh (SN 1978, ở tổ 25, phường Cam Giá) đang bán xi-lanh, nước cất và ống Novocain cho các đối tượng nghiện ma túy.
Thẩm phán Nguyễn An Chung, Chủ tọa phiên tòa xét xử phúc thẩm "kỳ án xi-lanh". |
Khi tổ công tác đến nơi và yêu cầu kiểm tra, Mai Anh đã tự giác giao nộp cho cơ quan công an 100 ống nhựa xi-lanh, 100 ống nước cất cùng 99 ống Novocain (đều chưa sử dụng). Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ toàn bộ tang vật và ra lệnh tạm giữ Mai Anh để điều tra, xử lý.
Tại CQĐT, Mai Anh khai nhận: Khoảng 3 tháng nay, chị này từ Hà Nội lên tổ 25 phường Cam Giá để chờ xin việc làm. Trong lúc chờ việc, Mai Anh đã bán nước giải khát. Thấy các con nghiện thường tìm mua xi-lanh và nước cất để thỏa mãn cơn nghiện nên chị ta đã mua nhiều xi-lanh nhựa loại 3ml, nước cất và ống Novocain của Hiệu thuốc Hà Lâm (ở đường Cách mạng tháng 8, phường Trung Thành, TP. Thái Nguyên) về bán kiếm lời.
Mỗi chiếc xi-lanh bán kèm theo một ống nước cất hoặc một ống Novocain, Mai Anh mua 1.200 đồng, bán với giá 2.000 đồng, lãi 800 đồng. Trong thời gian kể trên, mỗi ngày Mai Anh bán được 30-40 ống.
Tại bản án sơ thẩm số 76 ngày 21/4/2010, TAND TP.Thái Nguyên nhận định: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm do tiếp tay cho người nghiện ma túy. Tuy nhiên, bị cáo đã khai báo thành khẩn và có thái độ ăn năn hối cải. Đây được coi là hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm p, Khoản 1, Điều 46 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo đã tự giao nộp tang vật nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm o, Khoản 1, Điều 46, Bộ luật Hình sự. Bố bị cáo có đơn xin giảm án cho con, bị cáo lại có con nhỏ, đã ly thân chồng nên hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có việc làm.
Do vậy, Mai Anh được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ ở Khoản 2, Điều 46 Bộ luật Hình sự. Xét các tình tiết như trên, Tòa sơ thẩm chỉ tuyên phạt bị cáo Mai Anh 3 năm tù về tội “Mua bán các phương tiện dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm b, đ, Khoản 2, Điều 196 Bộ luật Hình sự. Mai Anh được miễn hình phạt bổ sung.
Tăng nặng hay giảm nhẹ?
Sau phiên tòa này, VKSND TP.Thái Nguyên đã có Công văn số 01/KSXXHS kháng nghị bản án. VKS cho rằng, Mai Anh là người nhận thức được hành vi phạm pháp của mình ở chỗ đã bị Công an phường Cam Giá nhắc nhở nhiều lần song vẫn tái phạm. Do vậy, Tòa áp dụng tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội tự thú được quy định tại Điểm o, Khoản 1, Điều 46 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ. Cũng theo VKS, đáng ra bị cáo còn phải chịu hai tình tiết định khung là phạm tội nhiều lần và vật phạm pháp có số lượng lớn.
Tại công văn này, VKSND TP. Thái Nguyên đề nghị tăng mức hình phạt và phải có hình phạt bổ sung mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 28/6/2010 do thẩm phán Nguyễn An Chung làm chủ tọa, Hội đồng xét xử đã đưa ra những căn cứ thuyết phục nhằm giữ nguyên bản án sơ thẩm. Trước luận điểm của VKS cho rằng Tòa không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ khi bị cáo tự thú, HĐXX đã chỉ ra: Tự thú là những hành vi có liên quan đến vụ án mà cơ quan điều tra chưa biết, bị cáo tự nhận khai ra. Trong vụ án, Mai Anh đã tự nguyên giao nộp vật vi phạm mặc dù tổ công tác chỉ yêu cầu kiểm tra hành chính chứ không phải khám xét người hay chỗ ở theo lệnh khám xét khẩn cấp.
Theo HĐXX phiên tòa phúc thẩm, Điều 47 Bộ luật Hình sự quy định: “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1, Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật”.
Trong vụ án này, bị cáo Mai Anh được áp dụng hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1, Điều 46 BLHS nên có thể áp dụng Điều 47 của bộ luật để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Theo đó, khung hình phạt liền kề quy định: “... bị phạt tù 1-5 năm”. Do đó, án sơ thẩm xử phạt 3 năm tù là phù hợp với hành vi phạm tội.
Về nội dung phạt bổ sung 5-7 triệu đồng, HĐXX lập luận: Khoản 3, Điều 196 BLHS có ghi rõ: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5-500 triệu đồng...”. Điều này có nghĩa là người phạm tội “có thể bị phạt” chứ không “bắt buộc bị phạt”. Bị cáo Mai Anh đã tự giác nộp các dụng cụ vi phạm, nếu bị cáo bán được 100 bộ, thu lời là 80.000 đồng.
Hoàn cảnh bị cáo khó khăn, không có việc làm, con còn nhỏ, một mình nuôi con nên khi xem xét nội dung này cần đảm bảo tính nhân đạo của Pháp luật Nhà nước ta. Bản án sơ thẩm không áp dụng hình phạt bổ sung là thỏa đáng.
Tưởng như vụ án đã kết thúc bằng những giải thích thuyết phục của Tòa phúc thẩm. Vậy nhưng đến ngày 14/9/2010, VKSND tỉnh Thái Nguyên lại Công văn 127/KSXXHS gửi VKSND tối cao đề nghị giám đốc thẩm vụ án này. Tại Công văn trả lời số 3293/VKSNDTC-V3 ngày 27/10/2010, VKSND tối cao cho rằng: Tòa án hai cấp tỉnh Thái Nguyên đã áp dụng các Điểm b, đ, Khoản 2, Điều 196; Điểm o, p Khoản 1, Khoản 2, Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
Trao đổi với PLVN, Thẩm phán Nguyễn An Chung tâm sự: “Trong vụ án này, tôi đã nghiên cứu rất kỹ các tình tiết liên quan. Mọi phán quyết mà HĐXX đưa ra đều có căn cứ rõ ràng. Đối với pháp luật, chúng ta không chỉ thể hiện tính nghiêm minh mà còn thể hiện tính khoan hồng đối với người lầm đường lạc lối. Bị cáo Mai Anh cũng là người hết sức đáng thương. Câu trả lời từ VKSND tối cao đã giúp chúng tôi tin tưởng vào công việc mà mình đã và đang làm”.
Ngọc Trìu - Minh Anh