Theo hồ sơ, bà Vương Thị Dung có thế chấp sổ đỏ cho bà Huệ vay 14 tỷ đồng. Để trừ nợ, ngày 13/5/2019, bà Dung bán cho bà Huệ thửa đất 101, tờ bản đồ 09 tại xã Tân Long giá 18 tỷ đồng. Hai bên hẹn ngày 18/6/2019 tiến hành công chứng.
Ngày 18/6/2019, bà Dung ủy quyền cho ông Tài trích lục hồ sơ, xác nhận đất, ký hợp đồng. Ngày 19/6/2019, ông Tài ký hợp đồng chuyển nhượng thửa 101 cho bà Huệ (mẹ ruột) nhưng chỉ ghi giá 5 tỷ đồng. Ngày 4/11/2019, bà Huệ chuyển nhượng thửa đất cho ông Quang, giá 18 tỷ đồng nhưng chỉ ghi 5 tỷ đồng.
Theo cáo trạng, giao dịch giữa bà Dung bà Huệ, theo hợp đồng thì bà Huệ phải nộp thuế TNCN, lệ phí; nên việc ghi giá thấp hơn thực tế dẫn đến bà Huệ trốn thuế TNCN, lệ phí 267,5 triệu đồng (sau khi trừ đi số tiền đã nộp). Bà Huệ bị xác định là chủ mưu, ông Tài bị xác định giúp sức.
Giao dịch giữa bà Huệ ông Quang thì thỏa thuận ông Quang nộp thuế TNCN, lệ phí; việc ghi giá thấp dẫn đến ông Quang trốn thuế TNCN, lệ phí 265,8 triệu đồng (sau khi đã trừ đi số tiền đã nộp). Ông Quang vai trò chủ mưu, bà Huệ giúp sức.
Tại phiên tòa, bà Huệ cho rằng xác định bà là chủ mưu trốn thuế TNCN, hưởng lợi trong giao dịch giữa bà và bà Dung là không đúng. Bà Huệ dẫn chứng bút lục 336 (giấy viết tay ghi ngày 22/6/2019), có nội dung bà Trần Thị Hoài đưa bà Huệ 300 triệu đồng là tiền bà Dung đóng thuế đất và phí công chứng. Nếu dư bà Huệ trả lại, thiếu thì bà Dung đưa thêm.
Khai với tòa, bà Hoài xác nhận bà Dung có đưa bà 300 triệu đồng để chuyển bà Huệ đóng thuế. Còn bà Dung khai việc chuyển nhượng đất là để cấn trừ nợ, chứ không nhận tiền, mọi chi phí bà Huệ chịu. Bà Dung không thừa nhận đưa bà Hoài 300 triệu đồng.
Ông Tài thì khai mẹ nói ký thì ký; không biết việc chuyển nhượng đất phải đóng những loại thuế, phí nào. “Ngày 18/6/2019, tôi đang chạy xe thì mẹ gọi về ký hợp đồng ủy quyền từ bà Dung sang tôi. Ngày 19/6/2019, tôi và mẹ đi công chứng. Lúc đến văn phòng công chứng, tôi gọi điện thì bà Dung nói ghi giá chuyển nhượng 1 tỷ đồng nhưng văn phòng công chứng không đồng ý. Sau đó bà Dung gọi lại nói ghi giá 5 tỷ đồng. Mọi việc tôi đều gọi điện hỏi bà Dung và được trả công vài trăm ngàn”, bị cáo Tài khai.
Đại diện VKS cho rằng đủ căn cứ xác định bà Huệ, ông Tài, ông Quang phạm tội “Trốn thuế”. Do có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị HĐXX truy thu tiền thuế TNCN còn thiếu, áp dụng hình phạt tiền với bà Huệ 500 - 600 triệu đồng, ông Tài 150 - 200 triệu đồng; ông Quang 250 - 300 triệu đồng.
Bào chữa cho bị cáo, LS Nguyễn Văn Quynh (Đoàn LS TP Hà Nội) nêu quan điểm: “Giao dịch giữa bà Huệ - bà Dung không cấu thành tội “Trốn thuế” vì không đủ định lượng. Giao dịch này, cơ quan thuế đã thu hai lần thuế TNCN, trong khi Bản án hành chính 01/2024/HC-ST ngày 18/9/2024 của TAND huyện Phú Giáo đã xác định giao dịch này chỉ phải đóng thuế 1 lần. Thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, có lợi cho bị cáo, số tiền đã đóng cho giao dịch này là 292 triệu đồng. Số tiền phải đóng 360 triệu đồng, sau khi cấn trừ, số tiền thuế còn thiếu 68 triệu đồng, chưa đủ cấu thành tội “Trốn thuế””.
LS cũng cho rằng gộp chung lệ phí với thuế TNCN để buộc tội là chưa phù hợp. “Theo khoản 1 và 2 Điều 3 Luật Quản lý thuế, thuế và lệ phí khác nhau. Điều 200 BLHS xác định hành vi “trốn thuế” chứ không phải “trốn lệ phí”. Cần xác định lại số tiền trốn thuế trong vụ án”, LS nói.
Với giao dịch giữa bà Huệ - ông Quang, LS cho rằng bà Huệ chỉ có vai trò giúp sức, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên VKS đề nghị mức phạt 500 - 600 triệu là cần xem xét lại.
LS bào chữa cho bị cáo Tài cũng cho rằng thân chủ mình không phạm tội, vì giao dịch giữa bà Dung - bà Huệ (mà ông Tài làm đại diện ủy quyền) đã bị thu thuế TNCN 292 triệu đồng/tổng số thuế TNCN phải thu 360 triệu nên không đủ cấu thành tội “Trốn thuế”.
HĐXX nghị án kéo dài và dự kiến tuyên án vào ngày 19/12.