Hồn quê xưa cũ

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) -  Mỗi lần về làng tôi thường tìm đến những nơi cất giấu kỷ niệm ấu thơ. Những con đường đất đá, bỏng rộp, mưa lầy, bàn chân chai sạm in dấu thuở nào... Trong khoảnh khắc của tâm tưởng, tôi cứ bước đi như thể, ngày xưa còn đâu đây...
Hồn quê xưa cũ

Tôi nhớ như in, kho đựng lúa của đơn vị dự trữ quốc gia năm nào. Tôi nhớ sân kho đội sản xuất năm nào. Thời “văn minh hợp tác xã” làng quê nào ở phía Bắc chẳng có sân đội sản xuất? Làng tôi nhiều đội, nhiều sân, nhà tôi thuộc đội đông hộ xã viên nhất. Kho là nơi chứa lúa của đội sản xuất sau khi gặt về. Sân là nơi tuốt lúa, quê tôi dùng các trục lúa bằng sức người hoặc sức trâu. Mỗi lần dùng sức trâu, đội sản xuất kết 2 trục bằng đá làm một. Ấy là những vụ bội thu.

Thóc sau khi được trục/ tuốt, theo công điểm tham gia công việc đồng áng, đội sản xuất cho từng gia đình. Rơm được chia đều. Rơm với nhà nông một thời quan trọng lắm. Thời nhà tranh vách đất nó thế. Tranh lợp nhà có thể là rạ/ tóoc tức là thân cây lúa sau khi đã gặt xong; vách làm từ rơm trộn với bùn non. Rơm còn là thức ăn dự trữ cho trâu bò những ngày đông, tháng giá. Nhà nào rơm, rạ nhiều còn là chất đốt ở làng quê. Nhà nông nào thời đó đầu hồi cũng đều có một cây rơm, cây rạ. Cây rơm, cây rạ cũng được xem là tiêu chí của sung túc.

Sân kho ấy là một trong những nơi chúng tôi chơi trò đánh trận giả. Quê tôi còn gọi là đánh “tạch, tạch”. Bọn trẻ chia làm hai phe, không chỉ có con trai mà nhiều khi con gái cũng tham gia. Những đống rơm chưa được gánh về nhà, còn để lại trên sân kho qua đêm là nơi hai bên “ẩn nấp”, dàn trận.

Chiều tối sau khi ăn gì đó gọi là bữa tối, bọn trẻ lại í ới nhau “Tạch, tạch không?” và kéo nhau ra sân kho đội sản xuất. Đêm trăng cũng như đêm không trăng. Thường đêm trăng không chơi, bởi trăng sà xuống nhận ra mặt nhau còn đâu là thú vị? Bọn trẻ chúng tôi sau khi ẩn nấp sau đống rơm, đội rơm lên đầu che kín mặt mũi, thậm chí cởi áo đổi cho nhau, trùm đầu, trườn ra phía ngoài nhìn về phía đống rơm nơi có “đối phương”. Đoán ra ai là “tạch” và phải xướng tên. Nếu “trúng” thì người bị “tạch” phải ra ngoài, coi như đã bị “loại khỏi vòng chiến đấu”. Trường hợp người “tạch” sai, tất nhiên bị loại.

Thế mà cầm cự ác liệt. Phe nào bị “tạch” hoặc “tạch” nhầm hết quân là thua. Thời đó, bọn trẻ nhà quê chỉ có niềm vui đồng nội và cái bụng lúc nào cũng đói nên chẳng có gì để cá cược như bọn trẻ bây giờ. Cùng lắm là bôi nhọ nồi lên mặt. Mỗi lần rủ nhau đánh bài, bịt mắt bắt dê, con quay, trồng nụ trồng hoa, nhảy lò cò, kéo mo cau, bắn bi, chọi cỏ, đua vòng thúng, pháo đất...đều chuẩn bị trước lọ nhọ nồi. Thế thôi. Chơi trận giả, tức “tạch tạch” thì không cần, ban đêm tôi trời, bôi nhọ nồi ai nhìn thấy?

Tiếng la hét của “trọng tài”, tiếng cười rộn rã sau một trận phân bại thắng thua cứ thế mà náo nức. Phải có trọng tài, không chỉ lúc “dàn trận” mà có khối đứa giả vờ, không chịu bị “loại”. Hết trận này sang trận khác, mê mãi đến tận khuya.

Mỗi lần chơi trận giả như thế, đứa nào cũng gãi, bụi rơm bám vào da thịt, trộn đều vào tóc, mùi rơm quện vào hơi thở... Chơi xong, ùm xuống ao làng, về lăn ra ngủ. Những đứa trẻ cứ thế lớn lên, phần lớn đi bộ đội, tiếp tục “tạch, tạch” trên chiến trường khốc liệt. Đứa ốm xo, không đủ sức khỏe thì đi công nhân, trung cấp, đại học. Dù ở phương trời nào, giàu có lắm của, sanh chảnh đến đâu thì trong vị mồ hôi vẫn có mùi rơm rạ, mùi của những đêm chơi trận giả ở làng.

Tôi nhớ mãi bài đồng dao của ai đó “Con nít! Cái tên nó là con nít! / Cái mình nhỏ xít / Đội mão lá mít / Cưỡi ngựa tàu cau / Đứa trước đứa sau / Rủ nhau một lũ / Học rồi thì chơi / Xuống nước tập bơi / Lên bờ đấm đá / Miệng thổi kèn lá / Tò tít! Tít tít! Tò te! ...”. Và nữa: “Hay phất cờ tre / Rủ nhau mà chơi trò / Giả đò đánh trận / Bắn! bắn! bắn! bắn! / Pằng! Pằng! Pằng! Pằng !”. “Pằng, pằng” hay “Tạch, tạch” mãi là âm hưởng của ký ức.

Tôi thường lẩn thẩn như thế mỗi dịp về làng. Nơi làm kho thóc của ngành dự trữ, sân kho hợp tác xã, đội sản xuất khi xưa bây giờ là những căn nhà dân khang trang. Những ngôi nhà mặt “phố” của làng xưa đã mọc lên diêm dúa. Bọn trẻ không còn biết nơi đó đã từng là nơi xốn xang của một thời con nít. Bọn trẻ bây giờ, cũng ít đứa được người lớn nhắc đến những ngày xa xưa.

Tôi cứ thế lẩn thẩn, tìm về quá vãng. Lẩm nhẩm mãi trong đầu câu thơ từng viết “Quê bây giờ lên phố / Về quê thành bơ vơ”. Không chỉ tôi bơ vơ, biết bao thứ tưởng như thuộc về muôn thuở đã bơ vơ. Sau mỗi chiếc cổng làng, dẫu bây giờ được xây to, rất to nhiều thứ đã rỗng. Làng phố đã giàu nhưng một thời đã rỗng!

Đọc thêm