Ký ức không phai
Chúng tôi tìm đến ông, bởi ông là người nhỏ tuổi nhất tham gia vận chuyển vũ khí từ tàu 401 lúc rạng sáng ngày 1/11/1964. Ông là Hồ Văn Tiện (SN 1952) sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Lộ Diêu, hiện đang nghỉ hưu ở TP.Quy Nhơn (tỉnh Bình Định).
Trước khi bắt đầu câu chuyện, ông xin phép được thắp một nén nhang lên bàn thờ cha mình là liệt sĩ Hồ Thuận, người được tổ chức bí mật giao nhiệm vụ đón tàu không số ở vũng Lộ Diêu. Chính ông Thuận là người đã trực tiếp có mặt trên con tàu 401 để bàn bạc với các cán bộ trên tàu phương án đưa vũ khí vào bờ.
Ông Tiện bồi hồi kể lại: “Năm ấy tôi vừa 12 tuổi. Thời điểm đó, cha tôi hay đưa tôi ra vũng đánh lưới. Mấy đêm liền cha giao tôi ngồi canh lưới, phần ông thì mang đèn pin đi dọc bờ biển. Sau này tôi mới biết cha đi bắt tín hiệu với tàu của ta”.
Uống ngụm trà, ông Tiện kể tiếp: “Tôi theo cha ra vũng liên tục 4 đêm liền, đến đêm thứ 5 thì tàu vào. Lúc đó cũng đã gần 4 giờ sáng. Con tàu lừng lững tiến vào vũng, càng lúc càng to dần. Hồi giờ ở làng biển của tôi đâu thấy con tàu to thế. Cha và tôi cùng lên tàu. Sau đó, tôi cũng tham gia vác súng, vác đạn cùng dòng người trong thôn đổ ra”.
Theo lời kể của ông Tiện, chúng tôi tìm về Lộ Diêu để gặp ông Phan Minh Hiến (SN 1945). Thời điểm tàu không số cập bến Lộ Diêu, ông Hiến là Trung đội trưởng dân quân, trực tiếp chỉ đạo công tác vận chuyển vũ khí từ tàu vào bờ.
Ông Hồ Văn Tiện bên bàn thờ cha. |
Ông Hiến hồi tưởng: “Được giao nhiệm vụ tổ chức đón tàu, chính tay tôi đã gióng mõ tập trung nhân dân Lộ Diêu để vận chuyển vũ khí. Tôi chỉ nói đó là tàu của mình, bà con lên vận chuyển hàng hóa vào bờ thôi, vậy là bà con mừng rỡ bắt tay vào việc ngay. Phụ nữ thì mang dây, mang đòn gánh, các cụ già thì mang cuốc mang xẻng, thanh niên trai tráng thì đi tay không đi thẳng ra tàu”.
Người dân đồng lòng, đồng sức nên 34 tấn vũ khí trên tàu đã được người dân Lộ Diêu nhanh chóng đưa vào bờ an toàn. Hành động quả cảm này đã góp công hoàn thành nhiệm vụ và có ý nghĩa lớn lao cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng quê hương.
Cát bụi không thể xóa mờ
Hôm chúng tôi về Lộ Diêu, ông Trần Văn Được (Bí thư Chi bộ thôn Lộ Diêu) giúp tìm gặp những người đã trực tiếp tham gia vận chuyển vũ khí từ tàu không số lên bờ năm xưa. Có những người vốn là dân quân, du kích như ông Phan Minh Hiến, ông Trần Văn Đích, nhưng có rất nhiều người chỉ là dân chài như ông Trần Lụa, ông Phan Văn Thắm…
Ông Trần Văn Đích, nguyên là du kích thôn Lộ Diêu, giờ đã 70 tuổi nhưng vẫn còn rất nhanh nhẹn. Chúng tôi theo chân ông ra vũng Lộ Diêu, để được tận mắt nhìn thấy những địa điểm ghi dấu chân của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong những ngày lịch sử ấy.
Nhìn từ xa, bờ biển ở vũng Lộ Diêu như một đường cong hình lưỡi câu, với móc câu là những tảng đá lớn trải từ mép biển vào bờ. Chính địa hình kín đáo ấy đã khiến vũng Lộ Diêu này trở thành một nơi trú ẩn khá lý tưởng cho tàu thuyền.
Ông Đích chỉ cho chúng tôi vị trí giữa vũng, nơi ngày xưa con tàu 401 neo lại để người dân ra vận chuyển vũ khí. Rồi từ đó, chúng tôi theo ông đi dọc bờ biển, nơi người dân Lộ Diêu đã dùng cuốc, xẻng, thậm chí là bằng tay đào cát lên để chôn giấu vũ khí.
Nơi tập trung nhiều vũ khí nhất là bên bờ suối Ông Bồng, con suối chảy từ núi thẳng ra biển. Suối Ông Bồng nay đã bị người nuôi tôm “nắn” dòng chảy ngày càng gần với lăng Ông Nam Hải của làng chài Lộ Diêu. Lăng nằm quay lưng vào dốc núi, trước mặt là biển. Xung quanh lăng cũng là địa điểm cất giấu rất nhiều vũ khí. Vì lượng vũ khí quá lớn, bãi biển Lộ Diêu không thể chứa hết, bà con phải kéo dài phạm vi chôn giấu đến gần khu vực đèo Hà Ra (thuộc địa phận xã Mỹ Đức, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định).
Bờ biển ở vũng Lộ Diêu chỉ là nơi chôn giấu vũ khí tạm thời. Suốt 3 ngày sau, bộ đội và những người có sức khỏe trong thôn Lộ Diêu và Phú Thứ (xã Mỹ Đức) tiếp tục đưa vũ khí lên các kho trên núi. Thời ấy, đường lên Hố Thùng (cũng thuộc địa phận xã Mỹ Đức) còn là đường mòn do những người đi rừng tạo ra.
Vũng Lộ Diêu, nơi chứng kiến sự kiện tàu không số cập bến ngày 1/11/1964. |
“Sau này tôi mới nhận ra, chỉ có ý chí và sự quyết tâm mới giúp chúng tôi vượt qua hàng tiếng đồng hồ đường rừng với vũ khí trĩu nặng trên vai. Giờ kho đạn cũ đã bị cây rừng vùi lấp, không còn đường lên đó nữa”, ông Đích tâm sự. Chúng tôi lặng nhìn theo tay ông, bàn tay phải lành lặn còn lại đang chỉ lên rặng núi sau thôn.
Theo chân người du kích từng hai lần bắn rơi máy bay Mỹ, chúng tôi nhận ra rằng, hầu hết những địa điểm chôn giấu vũ khí ngày xưa giờ không còn vết tích gì nữa. Song, cát bụi có thể vùi lấp dấu chân người, san phẳng những hố sâu, nhưng làm sao có thể xóa mờ ký ức về những tháng ngày lửa đạn hào hùng trong tâm trí người chiến sĩ cách mạng và người dân nơi đây.
Dưới những con sóng bạc đầu
Để đến được Lộ Diêu, phải qua con đèo nổi tiếng quanh co, trắc trở. Mặc dù tỉnh lộ 639 đã đi qua đây, nhưng những nóc nhà nhỏ núp dưới rặng dừa vẫn khá tách biệt với thế giới bên ngoài.
Buổi chiều chúng tôi đến Lộ Diêu, những người tham gia vận chuyển vũ khí năm xưa vẫn nhắc về thời khắc lịch sử ấy. Bất chợt, chúng tôi lại nhớ những lời tâm sự của ông Hồ Văn Tiện. 52 năm qua, ông chưa hề kể cho các con mình nghe về thời khắc lịch sử mà ông đã được chứng kiến và tham gia. Ngay cả người bạn đời của ông cũng không hề biết.
Những người già hiện còn sống ở Lộ Diêu cũng tâm sự rằng, đất Lộ Diêu có truyền thống cách mạng, người dân có nhiều đóng góp cho kháng chiến. Cũng như nhiều chiến công khác, một thời gian dài sự kiện đón tàu không số ít được nhắc đến (một phần vì yêu cầu giữ bí mật cho con đường Hồ Chí Minh trên biển), cho đến khi bến Lộ Diêu được công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh vào năm 2005, rồi 1 tấm bia di tích được dựng lên.
Lăng Ông Nam Hải của thôn Lộ Diêu, một trong những địa điểm chôn giấu nhiều vũ khí. |
Chính vì vậy, thế hệ trẻ ở Lộ Diêu ít người biết đến sự kiện tàu không số cập bến Lộ Diêu. Giáo dục truyền thống địa phương, trong đó sự kiện lịch sử ấy, là một việc làm rất cần thiết. Bên cạnh đó, nằm bên tỉnh lộ, Di tích lịch sử bến Lộ Diêu hoàn toàn có thể là một điểm đến trong những chuyến về nguồn của thanh niên, học sinh, xa hơn là đầu tư để trở thành một địa chỉ du lịch.
Xác con tàu mang số hiệu 401 sau 3 ngày đêm bùng cháy như ngọn đuốc khổng lồ sáng bừng cũng đã hòa mình vào mênh mông sóng biển đại dương. Nhưng 4 ngày đêm đầu tháng 11/1964 vẫn mãi mãi là một dấu son không thể phai mờ nơi rẻo cát Lộ Diêu, neo giữ trong trang sử hào hùng của đoàn tàu không số trên con đường Hồ Chí Minh trên biển và cả trong tâm tưởng của thế hệ mai sau.