Thẩm quyền quản lý gây nuôi ĐVHD
Các hoạt động gây nuôi ĐVHD có từ rất lâu (trước những năm 1980), khá phổ biến tại Việt Nam. Trong đó có nhiều loài động vật quý, hiếm đã và đang được các tổ chức, cá nhân nuôi sinh sản phục vụ mục đích thương mại với khoảng 18.000 cơ sở gây nuôi từ quy mô hộ gia đình đến quy mô công nghiệp, trên 100 loài thuộc các lớp thú, chim, bò sát được nhân nuôi ở các trang trại theo quy mô khác nhau trên cả nước. Số cá thể ĐVHD gây nuôi lên đến hàng triệu con. Một số loài được nuôi phổ biến như hươu sao, lợn rừng, khỉ đuôi dài, cá sấu nước ngọt, trăn đất, trăn gấm, các loài rắn hổ mang thường, rắn hổ mang chúa…
Các cơ sở nuôi ĐVHD tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam (70%), đặc biệt là miền Đông và miền Tây Nam bộ. Một số loài được nuôi ở quy mô công nghiệp như 10 cơ sở nuôi cá sấu nước ngọt đã đăng ký quốc tế, năng lực sản xuất hằng năm gần đây đạt trên 120 nghìn cá thể, hàng trăm nghìn cơ sở nuôi trăn với năng lực sản xuất lên đến 200 nghìn cá thể/năm. 10 năm gần đây, đã có hơn 1 triệu tấm da trăn được xuất khẩu. Một số cơ sở nuôi khỉ đuôi dài có năng lực sản xuất trên 10 nghìn cá thể/năm.
Việc quản lý ĐVHD nói chung, trong đó có hoạt động gây nuôi ĐVHD nói riêng được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) như Luật Đa dạng sinh học 2008, Luật Lâm nghiệp 2017, Luật Chăn nuôi 2018 và Luật Thủy sản 2017 và được cụ thể hóa tại 3 nghị định. Kèm theo đó là các chế tài xử lý vi phạm từ hành chính đến hình sự các hoạt động săn bắt, tàng trữ, vận chuyển, nuôi nhốt…
Hoạt động nuôi ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm có sự tham gia quản lý của các cơ quan sau: Đối với các loài thủy sinh, Nghị định 06/2019/NĐ-CP quy định các loài Phụ lục II CITES do cơ quan quản lý thủy sản cấp tỉnh kiểm tra, cấp mã số cơ sở nuôi. Đối với các loài động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm II Phụ lục II CITES, hoạt động nuôi do cơ quan kiểm lâm địa phương kiểm tra cấp mã số cơ sở nuôi.
Đối với các loài ĐVHD Nhóm I theo quy định của Chính phủ và loài thuộc Phụ lục I CITES, hoạt động nuôi sinh sản, sinh trưởng sẽ do cơ quan quản lý CITES Việt Nam kiểm tra, cấp mã số.
Theo Thông tư 27/2018/TT-BNNPTNT, đối tượng phải thực hiện xác nhận bảng kê lâm sản là: “động vật rừng và bộ phận, dẫn xuất của động vật rừng có nguồn gốc khai thác từ tự nhiên hoặc gây nuôi trong nước; động vật rừng, sản phẩm của động vật rừng nhập khẩu thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm”. Thẩm quyền xác nhận hồ sơ là cơ quan kiểm lâm sở tại.
Đối với hoạt động khai thác từ tự nhiên, nuôi vì mục đích bảo tồn loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ quy định trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường và UBND cấp tỉnh trong việc cấp giấy chứng nhận cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học cũng như cấp giấy vận chuyển mẫu vật các loài này.
Hoàn thiện “lỗ hổng” pháp luật
Tại buổi tọa đàm “Gây nuôi ĐVHD trong bối cảnh lan truyền dịch bệnh và áp lực bảo tồn loài” do Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) tổ chức mới đây, TS. Vương Tiến Mạnh, Phó Giám đốc Cơ quan quản lý CITES Việt Nam cho biết, hiện hệ thống văn bản QPPL còn nhiều chồng chéo, một số quy định còn bất cập, gây khó khăn trong quá trình xử lý vi phạm về buôn bán, vận chuyển trái phép và tạo ra lỗ hổng pháp lý mà tội phạm về ĐVHD lợi dụng. Bên cạnh đó, nhu cầu tăng của thị trường thúc đẩy hoạt động gây nuôi trái pháp luật ĐVHD.
Ông Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc PanNature nhấn mạnh, tình trạng chăn nuôi không đảm bảo điều kiện kỹ thuật cũng được ghi nhận khi các trang trại gây nuôi hỗn hợp các loài ĐVHD với điều kiện chăm sóc thú y rất kém và hầu như không biết về nguồn bệnh tiềm ẩn luôn đe dọa vật nuôi.
Để giải quyết các khó khăn trong quản lý nuôi ĐVHD, theo các nhà khoa học, cần có các biện pháp kiểm soát, hạn chế tác động, nguy cơ, rủi ro lây nhiễm từ ĐVHD sang người; nghiên cứu đánh giá đầy đủ hơn về các khía cạnh như bảo tồn, sức khỏe cộng đồng để có chính sách phù hợp. Cần hoàn thiện và đảm bảo tính thống nhất của hệ thống văn bản QPPL, cơ chế, chính sách. Đồng thời, xây dựng cơ sở dữ liệu nuôi ĐVHD trên cả nước, minh bạch hóa thông tin, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát để hạn chế việc lưu thông ĐVHD săn bắt ngoài tự nhiên.