Kiểm soát nợ công trong giới hạn nhưng chưa bền vững

(PLVN) - Cả 5 chỉ tiêu nợ đến cuối năm 2018 đều đạt so với mục tiêu Quốc hội đã đề ra, tuy nhiên cùng với việc Việt Nam tốt nghiệp IDA (hay nói cách khác là việc dừng nhận các khoản vay ưu đãi từ Hiệp hội phát triển Quốc tế (IDA) thuộc Ngân hàng Thế giới WB) kể từ năm 2017, các chỉ tiêu chi phí - rủi ro danh mục nợ Chính phủ, đặc biệt nợ nước ngoài có xu hướng kém thuận lợi hơn trước đây…
Kiểm soát nợ công trong giới hạn nhưng chưa bền vững

Thông tin tại cuộc họp báo chuyên đề của Bộ Tài chính tổ chức 7/6 cho biết, đến cuối năm 2018, nợ công/GDP ước đạt 58,4% (mức Quốc hội đề ra là≤ 65%); Nợ Chính phủ/GDP chỉ khoảng 50% (mức Quốc hội đề ra là ≤ 54%); Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/Thu Ngân sách nhà nước (NSNN) đạt 15,9% (mức Quốc hội đề ra là ≤ 25%); Nợ nước ngoài quốc gia/GDP đạt 46% (mức Quốc hội đề ra là≤50%); Kỳ phát hành trải phiếu Chính phủ (TPCP) bình quân là 12,7 năm (chỉ tiêu Quốc hội là 6 - 8 năm).

“Các chỉ tiêu nợ nói trên đảm bảo trong giới hạn được Quốc hội quyết định và thấp hơn mức dự kiến tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 1/1/2018 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2018...”, ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Trưởng phòng Kế hoạch và Quản lý rủi ro, Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (QLN&TCĐN), Bộ Tài chính khẳng định. 

Nguyên nhân được chỉ ra là do nền tảng vĩ mô khởi sắc, tăng trưởng GDP vượt kế hoạch và đạt mức cao nhất trong 11 năm qua. Cùng với đó, điều hành chính sách tài khóa đạt được nhiều thành quả khả quan, thu cân đối ngân sách ước vượt 7,8% so với dự toán, dự kiến bội chi NSNN thấp hơn so với dự toán là 3,7% GDP, qua đó giảm nhu cầu huy động vốn vay của Chính phủ.

Ngoài ra, giải ngân vốn ODA, ưu đãi nước ngoài chậm hơn dự kiến và biến động tỷ giá được kiểm soát tốt đã góp phần giảm quy mô nợ nước ngoài của Chính phủ khi quy ra đồng Việt Nam. Kiểm soát chặt chẽ các khoản bảo lãnh của Chính phủ, không cấp bảo lãnh mới cho doanh nghiệp vay trong nước và khuyến khích người vay trả nợ trước hạn dẫn đến giảm dư nợ bảo lãnh nước ngoài cũng là nguyên nhân giúp cho các chỉ tiêu nợ đảm bảo trong giới hạn được Quốc hội quyết định.

Theo ông Võ Hữu Hiển, Phó Cục trưởng Cục QLN&TCĐN, mặc dù quy mô danh mục nợ Chính phủ đến cuối năm 2018 được kiểm soát tốt ở mức 50% GDP (so với mức 52,7% vào năm 2016; 51,7% vào năm 2017), tuy vậy, cùng với ảnh hưởng của việc Việt Nam tốt nghiệp IDA kể từ năm 2017, các chỉ tiêu chi phí - rủi ro danh mục nợ Chính phủ, đặc biệt là nợ nước ngoài, có xu hướng kém thuận lợi hơn trước đây. 

Cụ thể, rủi ro tái cấp vốn tập trung vào các khoản nợ trong nước của Chính phủ do nghĩa vụ trả nợ đến hạn tập trung cao vào một số năm (9,3% danh mục nợ trong nước của Chính phủ sẽ đến hạn năm 2019; 32,7% sẽ đến hạn trong giai đoạn 2019-2021), điều này sẽ tác động đến việc bố trí nguồn trả nợ trong cân đối NSNN. 

Đối với danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ, trong 5 năm tới các khoản vay ODA sẽ giảm dần, tiến đến kết thúc, dẫn đến thiếu hụt nguồn vốn vay dài hạn, ưu đãi cho đầu tư. Thay vào đó, Chính phủ cần huy động các khoản vay mới với điều kiện kém ưu đãi hơn nhiều, sát với thị trường để bù đắp thiếu hụt cho cân đối NSNN và đầu tư công trung hạn.

Cùng với đó, rủi ro lãi suất danh mục nợ nước ngoài có xu hướng gia tăng do tỷ trọng các khoản vay có lãi suất thả nổi tăng. Tuy nhiên, nhìn chung mặt bằng lãi suất bình quân nợ nước ngoài của Chính phủ vẫn duy trì ở mức thấp (2,0%/năm) do trên 96% khoản vay nước ngoài có điều kiện ODA, vay ưu đãi. Yếu tố này góp phần quan trọng giúp duy trì chỉ tiêu trả nợ trên thu NSNN trong ngưỡng an toàn và được Quỹ Tiền tệ Quốc tế cũng như các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá tích cực khi phân tích tính bền vững danh mục nợ của Việt Nam.

Đối với nợ trong nước, lãi suất bình quân gia quyền của danh mục nợ tính đến cuối năm 2018 ở mức 5,8%/năm, giảm đáng kể so với mức 6,6%/năm vào năm 2015. Tuy nhiên, do quy mô thị trường trái phiếu còn nhỏ, trong khi tiềm lực tài chính của các tổ chức tài chính phi ngân hàng còn hạn chế, việc tập trung phát hành TPCP kỳ hạn dài là tương đối khó khăn. Ngoài ra, việc không phát hành TPCP kỳ hạn ngắn dưới 5 năm cũng dẫn đến đường cong lãi suất chuẩn không đầy đủ, thiếu lãi suất ngắn hạn tham chiếu cho thị trường vốn.

Mặc dù tỷ lệ vay bằng đồng Việt Nam đã tăng lên (từ 55% vào cuối năm 2015 lên 59,2% dư nợ Chính phủ tính đến hết năm 2018), song danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ vẫn tập trung vào 4 loại tiền chủ đạo gồm SDR, JPY, USD và EUR, là những đồng tiền có biến động lớn trong thời gian vừa qua. 

Theo đại diện Cục QLN&TCĐN, một trong những giải pháp tới đây là tiếp tục thực hiện quyết liệt chỉ đạo và chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững tại Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị…

Bộ trưởng Bộ Tài chính vừa ký Quyết định 863/QĐ-BTC ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ, Chỉ thị 07/CT-TTg ngày 5/3/2018 và Chỉ thị 26/CT-TTg ngày 6/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ trong năm 2019 và năm 2020. Quyết định 863/QĐ-BTC có hiệu lực từ ngày 23/5/2019 và thay thế Quyết định 884/QĐ-BTC ngày 11/6/2018 của Bộ Tài chính.
Tại Quyết định này, Bộ trưởng Bộ Tài chính yêu cầu bảo đảm cụ thể, khả thi và có kết quả rõ ràng hướng tới hoàn thành các nhiệm vụ của Bộ Tài chính được giao; hướng tới cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp (DN); bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của DN; quy định rõ trách nhiệm của cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, người đứng đầu trong tổ chức triến khai thực hiện; quy định rõ chế độ báo cáo, cơ chế kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện, bảo đảm thực hiện đúng tiến độ và xử lý kịp thời các vướng mắc phát sinh.
Đối với nhiệm vụ bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của DN, Bộ Tài chính đã đề ra các giải pháp cụ thể liên quan tới các lĩnh vực, bao gồm: lĩnh vực thuế, hải quan; lĩnh vực tài chính DN và chứng khoán; lĩnh vực tài chính ngân hàng và bảo hiểm.

Đọc thêm