Anh Văn Ba trên hành trình tìm đường cứu nước
Theo bài viết của TS. Nguyễn Thị Tình (nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Di sản Văn hóa Việt Nam), năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã tự giới thiệu với chủ tàu Amiral Latouche Tréville (thuộc hãng Chargeurs Réunis) tên mình là Ba và anh được chủ tàu nhận làm phụ bếp cho chiếc tàu chở hàng. Ngày 3/6/1911, Nguyễn Tất Thành nhận được thẻ nhân viên của tàu với tên là Văn Ba. Ngày 5/6/1911, tàu rời bến cảng Nhà Rồng ở Sài Gòn, trên đó có người thanh niên Việt Nam đi sang Pháp để khám phá những gì ẩn sau từ những từ “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của nước Pháp.
Theo hành trình của con tàu, anh Văn Ba đã ghé cảng Singapore, cảng Colombo thuộc Sri Lanka, cảng Xait của Ai Cập. Sau một tháng, tàu đến hải cảng Mácxây. Sau đó tàu rời Mácxây đi tới một hải cảng ở miền Bắc nước Pháp - cảng Lơ Havơrơ, cảng Đoongkéc trên bờ biển Măngxơ, rồi lại trở về Mácxây. Cuối tháng 10/1911, anh Văn Ba vẫn làm việc trên tàu này trở lại Sài Gòn và sau đó lại theo tàu trở lại nước Pháp. Năm 1912, khi đang làm vườn cho ông chủ hãng Sácgiơ Rêuyni thì được biết có một chuyến tàu chở hàng đi vòng quanh châu Phi, Văn Ba đã nhận làm phụ bếp trên tàu.
Trong chuyến đi này, anh Văn Ba lại có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông. Đối với anh Văn Ba, chuyến đi vòng quanh châu Phi là dịp may hiếm có để anh “xem các nước làm như thế nào để trở về giúp đồng bào mình”. Cho nên mỗi lần tàu cập bến anh đều kiếm cách đi thăm thành phố. Buổi sáng mỗi ngày, anh Ba dậy sớm để xem mặt trời mọc. Và trong những đêm trăng, anh Ba không ngủ mà đi đi lại lại trên tàu, ngắm trời, ngắm bể. Một thực tế anh Ba tận mắt chứng kiến đó là sự thống khổ của những người dân thuộc địa và sự tàn ác vô nhân đạo của bọn thực dân...
Chuyện chưa kể về trang sổ lương của anh Văn Ba
Làm việc trên tàu Latouche Tréville, anh Văn Ba - Nguyễn Tất Thành được giao nhặt rau, vác khoai, rửa nồi, cào lò, xúc than. Một trong những trang sổ lương của Nguyễn Tất Thành được sao lại từ cuốn sổ lương của tàu Amiral Latouche Tréville do Bảo tàng Hồ Chí Minh sưu tầm tại Trung tâm lưu trữ hải ngoại tại Aix en Provence, Pháp.
Một tháng sau khi rời bến cảng Nhà Rồng ngày 5/6/1911, tàu đến hải cảng Mácxây. Thủy thủ được nhận lương “mỗi nhân viên Việt Nam được từ một trăm đến hai trăm quan, thêm vào đấy tiền thưởng của hành khách. Anh Ba là phụ bếp chỉ được mười quan” (theo “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” - Trần Dân Tiên).
Trên hiện vật trang sổ lương có ghi rõ tên Văn Ba và tên hai người Việt Nam khác là Lê Quang Chi và Nguyễn Văn Trị cũng làm công trên tàu với mức lương là 45 frăng một tháng. Trong khi đó, những phụ bếp người Pháp cùng làm việc như anh thì hưởng lương nhiều gấp ba. Sau khi trả tiền ăn, tiền nộp cho cai bếp, góp vào quỹ bảo hiểm cho riêng thủy thủ người Pháp, thực tế anh Văn Ba chỉ còn nhận được 10 frăng.
Tuy phải làm nhiều công việc nặng nhọc nhưng mỗi khi được nghỉ, anh Văn Ba lại tranh thủ đọc và viết tiếng Pháp với sự giúp đỡ của những thủy thủ Pháp trên tàu. Theo hành trình của tàu, anh Văn Ba đã được đi đến nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người và biết được nhiều điều mới lạ. Sau những năm tháng ấy, anh đã rút ra được kết luận quan trọng thể hiện trong bài “Đoàn kết giai cấp” đăng trên báo Le Paria, số ra tháng 5 năm 1924: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi - tình hữu ái vô sản”.
Thực tế đó là cơ sở để anh Văn Ba - Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh xây dựng nên tình đoàn kết gắn bó giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước và Người đã trở thành người đầu tiên tổ chức cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa.
Sáng tỏ hành trình nghìn dặm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Năm 2021, nhân kỷ niệm 131 năm sinh nhật Bác và 110 năm Ngày Bác ra đi tìm đường cứu nước, tại Phủ Chủ tịch đã trưng bày chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” với hơn 300 bức ảnh tư liệu, tài liệu thời sự, với nhiều hình ảnh, tài liệu lần đầu tiên được công bố đã kể về cuộc đời giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong số những hình ảnh, tài liệu lần đầu tiên được công bố có hải trình của tàu Admiral Latouche Treville. Tư liệu này đã làm sáng tỏ hành trình nghìn dặm xuyên qua nhiều lục địa trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang theo khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”.
Ngoài ra còn có nhiều tư liệu quý khác cũng lần đầu tiên được công bố như: Hồ sơ và một số báo cáo của mật thám Pháp theo dõi Nguyễn Ái Quốc từ năm 1919 đến năm 1922 tại Pháp; Biên bản kết án của tòa án Vinh (Nghệ An) ngày 10/10/1929, trong danh sách kết án tử hình vắng mặt có tên Nguyễn Ái Quốc…
Dịp này, Nhà xuất bản Trẻ đã phát hành bản đồ hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ với mục đích dùng phương pháp trực quan mô tả lại hành trình tìm đường cứu nước của Bác để người xem có thể trong khoảng thời gian ngắn hình dung được toàn bộ hành trình trải qua các mốc thời gian.
Bản đồ sử dụng tư liệu từ tập sách “Hành trình theo chân Bác” của tác giả Trần Đình Tuấn có nội dung tái hiện quá trình hoạt động của Bác Hồ từ ngày 5/6/1911- ngày rời cảng Sài Gòn trên tàu Amiral Latouche Tréville đến ngày 28/1/1941 là thời điểm về tới Cao Bằng qua cột mốc 108. Bản đồ chia hành trình của Bác ra thành 10 chặng, mỗi chặng còn được chia thành các mốc - là các điểm dừng - được đánh số từ mốc đầu đến mốc cuối theo thứ tự: Cảng Sài Gòn - Le Havre, vòng quanh châu Phi, Pháp - châu Mỹ - Anh, Pháp - Liên Xô, Matxcơva - Quảng Châu, Matxcơva - Xiêm, Hong Kong - Thượng Hải, Thượng Hải - Matxcơva, Matxcơva - Quế Lâm, Quế Lâm - Pác Pó. Nhờ vậy, người xem sẽ dễ dàng lần theo từng chặng trong hành trình theo đúng thứ tự và có thể xác định được hướng đi của hành trình theo mũi tên chỉ.
Ông Dương Thành Truyền, Quyền Giám đốc Nhà xuất bản Trẻ cho biết: “Bản đồ hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ như một công trình khoa học được nghiên cứu thực hiện và hoàn thành trong thời gian 3 tháng. Nội dung bản đồ tái hiện lịch sử bằng phương pháp thị giác. Dấu ấn đặc sắc từ tấm bản đồ này là người xem sẽ dễ dàng hình dung, theo dõi, tra cứu về hành trình của Bác Hồ năm xưa trong mối liên hệ với bối cảnh địa chính trị hiện nay”.