Nghị định 91 tháo gỡ nhiều vướng mắc cho doanh nghiệp về thuế

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Ngày 30/10/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định 91/NĐ-CP (NĐ 91) sửa đổi một số điều của Nghị định 126/2020/NĐ-CP (NĐ 126) quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Theo Tổng cục Thuế, NĐ 91 đã có những sửa đổi đáp ứng được sự mong đợi của cộng đồng người nộp thuế (NNT) và doanh nghiệp (DN). Trong đó điều mong chờ nhất đó là quy định về tỉ lệ tạm nộp thuế TNDN.

NĐ 91 đã bổ sung và quy định rõ: Tổng số thuế TNDN đã tạm nộp của 4 quý không được thấp hơn 80% số thuế TNDN phải nộp theo quyết toán năm.

Trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, nộp thuế, thời hạn cơ quan quản lý thuế giải quyết hồ sơ, thời hạn hiệu lực của quyết định cưỡng chế trùng với ngày nghỉ theo quy định thì ngày cuối cùng của thời hạn được tính là ngày làm việc liền kề sau ngày nghỉ đó.

Trường hợp NNT nộp thiếu so với số thuế phải tạm nộp 4 quý thì phải nộp tiền chậm nộp tính trên số thuế nộp thiếu kể từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn tạm nộp thuế TNDN quý 4 đến ngày liền kề trước ngày nộp số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước (NSNN).

NNT có thực hiện dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, nhà để chuyển nhượng hoặc cho thuê mua, có thu tiền ứng trước của khách hàng theo tiến độ phù hợp với quy định của pháp luật thì thực hiện tạm nộp thuế TNDN theo quý theo tỷ lệ 1% trên số tiền thu được.

Trường hợp chưa bàn giao cơ sở hạ tầng, nhà và chưa tính vào doanh thu tính thuế TNDN trong năm thì NNT không tổng hợp vào hồ sơ khai quyết toán thuế TNDN năm mà tổng hợp vào hồ sơ khai quyết toán thuế TNDN khi bàn giao bất động sản đối với từng phần hoặc toàn bộ dự án.

Về lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ của DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, được NĐ 91 quy định rõ: NNT phải tự xác định số lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ tạm nộp quý chậm nhất vào ngày 30 của quý tiếp theo quý phát sinh nghĩa vụ nộp và được trừ số lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ đã tạm nộp với số phải nộp theo quyết toán năm.

Tổng số lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ đã tạm nộp của 4 quý không được thấp hơn 80% số lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ theo quyết toán năm.

Trường hợp NNT nộp thiếu so với số phải tạm nộp 4 quý thì phải nộp tiền chậm nộp tính trên số tiền nộp thiếu kể từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn tạm nộp lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ quý IV đến ngày liền kề trước ngày nộp số lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ còn thiếu vào NSNN.

Đối với số lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ phải nộp tăng thêm khi thực hiện khai bổ sung do điều chỉnh kết quả xếp loại DN theo công bố của chủ sở hữu từ thời điểm ngày tiếp sau ngày cuối cùng của hạn nộp lợi nhuận sau thuế còn lại theo quyết toán năm đến thời hạn công bố kết quả xếp loại DN của chủ sở hữu theo quy định của cơ quan có thẩm quyền thì DN không phải nộp tiền chậm nộp.

Trước đây, theo NĐ 126, tổng số thuế TNDN đã tạm nộp của 3 quý đầu năm tính thuế không được thấp hơn 75% số thuế TNDN phải nộp theo quyết toán năm. Trường hợp NNT nộp thiếu so với số thuế phải tạm nộp 3 quý đầu năm thì phải nộp tiền chậm nộp tính trên số thuế nộp thiếu kể từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn tạm nộp thuế TNDN quý III đến ngày nộp số thuế còn thiếu vào NSNN…

Với các quy định được sửa đổi tại NĐ 91, DN phần nào trút được nỗi lo nộp tiền chậm nộp…

Nghị định này có hiệu lực từ ngày ký ban hành. Quy định về tỉ lệ tạm nộp thuế 4 quý không thấp hơn 80% số thuế năm là một trong các quy định được áp dụng từ kỳ tính thuế năm 2021.

Đọc thêm