Gương sáng Pháp luật

Người gìn giữ thanh âm văn hóa người Giẻ Triêng

(PLVN) -  Trong văn hóa của người Giẻ Triêng, âm nhạc luôn gắn liền với cuộc sống hàng ngày, trong lúc lên nương, lên rẫy hay lễ mừng lúa mới, đám cưới, tỏ tình và đón du khách phương xa… Nét văn hóa độc đáo ấy vẫn được giữ gìn đến ngày nay chính nhờ những người như Nghệ nhân ưu tú, già làng Đăk Răng - A Brol Vẽ.

“Bảo tàng” nhạc cụ giữa đại ngàn

Làng văn hóa Đăk Răng (xã Đăk Dục, huyện Ngọc Hồi, Kom Tum) có 120 hộ, gần 400 nhân khẩu, trong đó đồng bào dân tộc Giẻ Triêng chiếm trên 95%. Ngôi làng có cảnh quan thiên nhiên hài hòa, hội tụ đầy đủ các yếu tố cảnh quan chung của vùng đất Tây Nguyên và đặc biệt rất mến khách.

Du khách được buôn làng chào đón bằng những tiếng cồng, tiếng chiêng vang dội với những điệu múa xoang mềm mại, uyển chuyển. Cồng chiêng của người Giẻ Triêng có 1 bộ gồm 3 loại: 1 ống nứa, một trống nhỏ và một chiêng bằng đồng. Khi bộ ba hợp âm này vang lên, mọi người trong làng nắm tay nhau cùng uống rượu, nhảy rạp, nhảy cho hết ngày và đêm, say sưa với đất trời.

Trong bộ trang phục truyền thống dân tộc Giẻ Triêng, Nghệ nhân ưu tú - già làng Đăk Răng - A Brol Vẽ (SN 1945) nhiệt tình mời du khách vào thăm “bảo tàng âm nhạc mini” của mình. Trong nhà sàn gỗ ánh màu thời gian, bộ nhạc cụ truyền thống của người Giẻ Triêng gồm 14 món: là Đoar, Pin, Ring, Oong Eng Nhâm, Pin Pui, Khèn, Đinh Tút, Ong Eng Ọt, Đâl Đô, Gar, Pun Pâu, Ta Linh, Ta Lẻ và Tơ Lun… đều được ông trưng bày, nâng niu. Các loại nhạc cụ này chủ yếu được làm từ gỗ, tre, nứa, giang… lấy trên rừng gần làng. Người thợ chế tác cần có tay nghề cao, cẩn thận, tỉ mỉ, bởi sự tinh tế cần thiết trong việc đục, đẽo, khoét lỗ; sẽ tạo ra những nhạc cụ có chất lượng âm thanh tốt, đạt chuẩn.

Già làng A Brol Vẽ trong bảo tàng nhạc cụ mini của mình.

Già làng A Brol Vẽ trong bảo tàng nhạc cụ mini của mình.

Để giới thiệu thanh âm núi rừng, già làng nhanh nhẹn lấy các nhạc cụ, lần lượt trình diễn từng loại và ngân nga điệu hát của dân tộc Giẻ Triêng. Già làng A Brol Vẽ còn có bộ chiêng sum bảy lá treo trên vách. "Đó là bộ chiêng quý, được đánh trong các hội làng, nhưng cả bộ không bằng hai lá chiêng đang cất trong nhà", nói rồi ông đi vào nhà trong và trở ra với hai lá chiêng, cái lớn chừng 50cm, cái nhỏ 40cm. Ông cho hay: "Cả hai xã Đăk Dục và Đăk Nông bây giờ, chỉ còn có mỗi độc bản này. Đến giờ, người làm chiêng này càng hiếm, bởi kỹ thuật làm chiêng thành bí truyền". Bộ chiêng của già Brol Vẽ nguyên bộ có bốn lá, gồm Ko, Kon, Tray, Sao, do dòng họ đổi từ 8 con trâu với người Lào và giao cho cha của ông cất giữ.

Ông A Brol Vẽ vừa đánh đàn, vừa hát cho du khách thưởng thức các điệu nhạc dân tộc Giẻ Triêng.

Ông A Brol Vẽ vừa đánh đàn, vừa hát cho du khách thưởng thức các điệu nhạc dân tộc Giẻ Triêng.

Đưa ánh mắt nhìn xa xăm, ông chậm rãi hồi tưởng, các thế hệ của người Giẻ Triêng sinh ra và lớn lên trong tiếng cồng chiêng, bên ánh lửa bập bùng, cùng những điệu múa xoang truyền thống. Dân tộc Giẻ Triêng là một trong những dân tộc có văn hóa rất độc đáo và giàu bản sắc.

Cồng chiêng xuất hiện trên mảnh đất Tây Nguyên chan hòa nắng gió từ bao giờ không ai rõ. Nó như mạch nước ngầm thấm đẫm hơi thở cuộc sống. Cồng chiêng là linh hồn của các lễ hội, gắn liền với đời sống văn hóa, tâm linh của dân tộc. Từ khi sinh ra, người dân đã nghe tiếng cồng tiếng chiêng ngân vang khắp núi rừng trong các dịp lễ hội truyền thống như khi gieo hạt lúa, lúc gọi linh hồn người về rừng, khi gọi hồn lúa...

Những bộ chiêng cổ là “vật chứng sống” tượng trưng cho sự trường tồn của bản làng trước những thay đổi của nhịp sống mới. Hầu hết người trong làng hôm nay đều một lòng gìn giữ, nối truyền, đồng thời tiếp tục duy trì những lễ hội, phong tục, tập quán tốt đẹp để cho tiếng cồng, tiếng chiêng luôn có dịp được vang lên.

Không chỉ mang tính chất nghi lễ, nếu không có cồng chiêng, ngày tết, ngày lễ hội sẽ không vui, không tập trung được lũ trẻ, trai gái và buôn làng. Tuỳ vào từng lễ nghi mà giai điệu chiêng khác nhau, có khi thong thả, nhịp nhàng, khoan thai; có khi rộn ràng, sôi nổi; có khi trầm buồn.

Giữ “hồn” Giẻ Triêng

Để có thêm cồng chiêng chào đón du khách và giao lưu các dân tộc, già làng A Brol Vẽ động viên cả làng chắt chiu góp tiền, góp thóc sắm cồng chiêng. Kinh tế khó khăn, ban đầu, bà con không mấy hưởng ứng bởi áp lực cơm áo, gạo tiền, “lên nương cả ngày còn chưa ấm bụng”. Không nản, già làng A Brol Vẽ kiên trì phân tích cho bà con buôn làng hiểu giá trị của âm nhạc, giá trị của di sản ông cha để lại.

“Mưa dầm thấm lâu”, ngôi làng nhỏ bé ấy đã làm được chuyện lớn. Cứ mỗi tháng hai lần, đội nam, nữ với khoảng 50 người trong trang phục truyền thống cùng biểu diễn luyện tập bảo tồn những bài múa xoang, cồng chiêng và sáng tác thêm những điệu múa mới.

Nghệ nhân ưu tú A Brol Vẽ hướng dẫn thanh niên trong làng biểu diễn nhạc cụ dân tộc.

Nghệ nhân ưu tú A Brol Vẽ hướng dẫn thanh niên trong làng biểu diễn nhạc cụ dân tộc.

Già làng Brol Vẽ và người dân buôn làng Đăk Răng còn tham gia: “Ngày hội văn hóa, thể thao các dân tộc”, “Liên hoan văn hóa cồng chiêng”, “Liên hoan dân ca dân vũ” với nhiều quy mô khác nhau… Các hoạt động này đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa cho dân tộc Giẻ Triêng. Cách đây vài năm, ông từng được mời ra Làng Văn hoá các dân tộc Việt Nam ở Đồng Mô (Hà Nội) giới thiệu các nét văn hoá truyền thống của người Giẻ Triêng và mong muốn có nhiều khách du lịch đến với buôn làng, để hiểu hơn về người Giẻ Triêng.

Những năm qua, ngôi nhà sàn của già Brol Vẽ đã đón tiếp nhiều lượt khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu văn hóa dân tộc bản địa. Ông xem đó như một phần trách nhiệm của mình.

Già làng A Brol Vẽ mong muốn, các cơ quan chức năng quan tâm, hỗ trợ nguồn kinh phí trong công tác bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá tiêu biểu của các dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum và các chương trình, dự án, đề án của tỉnh về công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Qua đó, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống của các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Theo Nghệ nhân ưu tú A Brol Vẽ, mỗi loại nhạc cụ đều có ý nghĩa và sử dụng trong một ngữ cảnh riêng. Như: Tơ Lun sẽ được dùng để thổi khi lên nương, lên rẫy, nhằm giảm đi mệt mỏi; Ta Lẻ dùng để thổi khi đi lên rừng nhằm xua đuổi thú dữ; Khèn dùng cho các đôi nam nữ tỏ tình với nhau; Oong Eng Nhâm dùng để thể hiện nỗi nhớ chồng đi làm xa của người phụ nữ trong gia đình. Cha kẹt là một loại nhạc cụ được làm bằng sừng trâu, hình dáng giống như tù và. Lúc thổi cha kẹt, người sử dụng như hóa thân vào vị thủ lĩnh oai hùng có sức mạnh vô biên trấn giữ cho làng bình an.

Đọc thêm