Việt Nam nỗ lực thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR)

Đảm bảo quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin là chính sách nhất quán của Việt Nam

(PLVN) - Đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin cho mọi người dân là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam đã được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật; được đảm bảo ngày càng tốt hơn.
Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam đã được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật; được đảm bảo ngày càng tốt hơn. Ảnh minh hoạ.
Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam đã được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật; được đảm bảo ngày càng tốt hơn. Ảnh minh hoạ.

Đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin cho mọi người dân là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam đã được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật; được đảm bảo ngày càng tốt hơn thể hiện qua sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của các phương tiện thông tin đại chúng và được chính phủ bảo đảm thông qua nỗ lực xây dựng môi trường thông tin an toàn, lành mạnh đặc biệt là trên không gian mạng, phục vụ hiệu quả cho thực hành quyền tự do báo chí, tự do biểu đạt trong xã hội số, chuyển đổi số, xử lý nghiêm minh các hành vi cản trở việc thực hiện các quyền này.

1. Pháp luật Việt Nam đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam phù hợp với Công ước ICCPR

Các quyền tự do ngôn luận, báo chí đã được khẳng định ngay trong Điều 10, Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) của Nhà nước Việt Nam , sau đó được tiếp tục ghi nhận trong các bản Hiến pháp sau này.

Điều 25 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”

Triển khai quyền hiến định đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam đã thể chế hóa, quy định chi tiết các điều khoản về bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, cụ thể:

Luật Báo chí quy định rõ các điều khoản về bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí và Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí. Luật Báo chí năm 2016 đã dành cả Chương II để quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, gồm 04 điều, cụ thể: Điều 10: Quyền tự do báo chí của công dân; Điều 11: Quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; Điều 12: Trách nhiệm của các cơ quan báo chí đối với quyền tự do báo chí quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; Điều 13: Trách nhiệm của Nhà nước đối với quyền tự do báo chí quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân.

Báo chí và nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức và cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Công dân có quyền được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình trong nước và thế giới; tiếp xúc, cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không phải kiểm duyệt; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin, phát biểu ý kiến, góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại.

Luật cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan báo chí trong việc đăng, phát sóng các tác phẩm, ý kiến của công dân, trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời khiếu nại, tố cáo, ý kiến đóng góp…

Tuy nhiên, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận có các giới hạn, được ghi nhận tại Công ước ICCPR. Cụ thể là Điều 19, khoản 3. Công ước quy định “Việc thực hiện những quyền này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt.

Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác, b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.”

Điều 20 nêu rõ các nội dung cấm tuyên truyền, cụ thể: “Mọi hình thức tuyên truyền cho chiến tranh” (khoản 1) và “Mọi chủ trương gây hằn thù dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch, hoặc bạo lực” (khoản 2).

Trên tinh thần tuân thủ và bám sát các quy định tại Điều 19, 20 Công ước ICCPR, giống như ở nhiều nước, căn cứ thực tiễn phát triển kinh tế, văn hóa, điều kiện lịch sử đặc thù, tình hình cụ thể trong nước tại Việt Nam, Luật Báo chí của Việt Nam cũng ghi rõ những điều không được thông tin trên báo chí.

Cụ thể tại Điều 9 của Luật Báo chí năm 2016 quy định các hành vi bị nghiêm cấm được xác định gồm: các hành vi kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; không được kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước, kích động dâm ô, đồi trụy, tội ác; không được tiết lộ bí mật Nhà nước; không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của công dân.

Cùng với Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018 cũng có các điều khoản hạn chế quyền cụ thể, theo đó nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; nghiêm cấm những hành vi đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.

Các điều khoản hạn chế quyền được quy định bằng luật đều nhằm mục đích đảm bảo phóng viên, nhà báo có môi trường hoạt động thuận lợi, tự do và an toàn hơn, công dân thực hành quyền tự do ngôn luận trên báo chí và tự do thông tin thuận lợi hơn, đảm bảo môi trường internet lành mạnh, đúng với các nội dung hạn chế quyền nêu tại khoản 3, Điều 19 ICCPR và Điều 20 của Công ước ICCPR.

Hiện tại, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang triển khai việc tổng kết, xây dựng dự thảo sửa đổi Luật Báo chí 2016 và Luật Xuất bản 2012 trên tinh thần tiếp tục đảm bảo tốt hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền sáng tạo, quyền thông tin đồng thời mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với hoạt động báo chí, xuất bản trên không gian số trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ mọi mặt đời sống xã hội hiện nay.

2. Tạo điều kiện để người dân tìm kiếm, tiếp cận, trao đổi thông tin một cách tự do, thu hẹp khoảng cách thụ hưởng thông tin trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam

Đảm bảo thuận lợi hóa cho người dân thực hành các quyền tìm kiếm, tiếp cận, trao đổi thông tin một cách tự do như quy định tại Điều 19, khoản 1 và 2 của Công ước ICCPR, Chính phủ Việt Nam ban hành nhiều chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý báo chí, thông tin trên Internet; các chiến lược, chương trình, dự án nhằm giúp người dân, doanh nghiệp tiếp cận, tìm kiếm, chia sẻ, truyền đưa thông tin được dễ dàng và thuận lợi hơn.

Đồng bào các dân tộc ở vùng sâu, xa, biên giới, hải đảo đều có cơ hội được nghe, xem, theo dõi các phương tiện truyền thông, truy cập internet, mạng xã hội. Chính các phương tiện này đã và đang là phương tiện đắc lực để người dân thể hiện quyền tự do, dân chủ; là công cụ hữu hiệu giám sát quá trình tổ chức đời sống xã hội của Nhà nước và việc thực thi chính sách, pháp luật, bảo đảm và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân.

Luật Viễn thông năm 2023 được ban hành đã mở rộng phạm vi điều chỉnh, phù hợp với xu thế chuyển đổi số, hướng tới đảm bảo quyền lợi người sử dụng, bảo đảm an ninh, an toàn và tạo thuận lợi cho các dịch vụ phát triển; không hạn chế sở hữu nước ngoài đầu tư kinh doanh các dịch vụ mới; giảm bớt một số nghĩa vụ so với dịch vụ viễn thông truyền thống, đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền thụ hưởng của người dân.

Hàng loạt văn bản quy phạm và các văn bản hướng dẫn thi hành được Chính phủ ban hành, kích hoạt mạnh mẽ Chính phủ số như: Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước; Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 ban hành Chiến lược Chính phủ điện tử hướng đến Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 483/QĐ-BTTTT ngày 29/3/2023 ban hành Kế hoạch hành động triển khai Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng năm 2030 và Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025 định hướng đến năm 2030.

Mới đây nhất, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, theo đó xác định một trong năm quan điểm chỉ đạo là “bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an toàn thông tin của tổ chức và cá nhân là yêu cầu xuyên suốt, không thể tách rời trong quá trình phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.

Ở cấp cơ sở, Nghị định số 49/2024/NĐ-CP ngày 10/5/2024 quy định về hoạt động thông tin cơ sở nhằm đảm bảo thông tin kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch, phù hợp với trình độ, nhu cầu của người dân ở từng vùng, miền, đặc biệt là người dân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; người dân được đảm bảo và bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; tôn trọng ý kiến đóng góp của người dân, tiếp nhận thông tin phản ánh và thông tin nội dung trả lời của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đối với thông tin phản ánh của người dân...

Sau 28 năm kết nối internet, theo thống kê của We are social và Meltwater đến tháng 02/2025, Việt Nam có 79,8 triệu người dùng internet, chiếm 78,8% tổng dân số (101 triệu người). So với cùng kỳ năm ngoái, số lượng người dùng internet đã tăng thêm 0,3% (223.000 người). Trung bình mỗi người dành hơn 6 giờ/ngày để truy cập internet.

Sự tăng trưởng người dùng mạng xã hội tại Việt Nam khá ấn tượng, với 3,5 triệu người gia tăng (+4,8%) từ đầu năm 2024 đến đầu năm 2025. Điều này cho thấy mạng xã hội đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ và trở thành kênh phổ biến để người tiêu dùng tiếp cận thông tin. Tính đến tháng 1 năm 2025, 95,4% người dùng internet tại Việt Nam đã sử dụng ít nhất một nền tảng mạng xã hội. Mạng di động đã phủ sóng 99.8% dân số. Số thuê bao di động đạt 118.6 triệu thuê bao, trong đó có 98.37 triệu thuê bao băng rộng di động. Tỷ lệ thuê bao điện thoại di động sử dụng điện thoại thông minh đạt 87,4% tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2023.

Các doanh nghiệp đã triển khai hơn 1 triệu km cáp quang, phủ 100% xã, phường trên toàn quốc. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng cáp quang đạt 82,3% tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2023 . Các con số trên là các minh chứng không thể phủ nhận về thực tiễn bảo đảm tự do tiếp cận, tìm kiếm và trao đổi thông tin của người dân Việt Nam.

Với chủ trương thu hẹp khoảng cách trong thụ hưởng thông tin giữa các vùng, miền trên cả nước, nhất là nâng cao khả năng tiếp cận thông tin cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, Chính phủ ban hành: (1) Quyết định số 1168/QĐ-TTg ngày 24/7/2015 phê duyệt Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích đến năm 2020 ; (2) Quyết định số 467/QĐ-TTg ngày 25/4/2019 về tích hợp các chính sách hỗ trợ thông tin, tuyên truyền cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo kết hợp với các Chương trình Mục tiêu Quốc gia về thông tin, Chương trình Mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; (3) Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày 20/01/2020 phê duyệt Đề án nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin cơ sở dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin tăng tiếp cận thông tin ở cơ sở; (4) Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/06/2021 phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 nhằm phổ cập và cá nhân hoá các dịch vụ (như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế…) tới từng người dân để phục vụ quyền của người dân tốt hơn; tạo ra cơ hội cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo tiếp cận dịch vụ trực tuyến một cách công bằng, bình đẳng và nhân văn rộng khắp “không ai bị bỏ lại phía sau” .

Những thành tựu đáng ghi nhận trong tăng cường tiếp cận thông tin của người dân, thu hẹp khoảng cách về thụ hưởng thông tin giữa thành thị và nông thôn, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc miền núi, biên giới, hải đảo đã được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Tuy nhiên, là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam cũng gặp một số khó khăn trong đầu tư nguồn lực, phủ sóng vùng lõm và sẽ nỗ lực tiếp trong giai đoạn tới.

3. Phòng chống thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật, đảm bảo môi trường thông tin lành mạnh

Tự do thông tin đi cùng với việc đảm bảo tốt hơn an toàn thông tin, bảo mật thông tin cá nhân, dữ liệu người dùng. Nghị định số 85/2016/NĐ-CP về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ. Thông tư số 03/2017/TT-BTTTT ngày 24/4/2017 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Nghị định số 85/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ và Thông tư số 12/2022/TT-BTTTT ngày 12/8/2022 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 85/2016/NĐ-CP về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ (ban hành thay thế Thông tư số 03/2017/TT-BTTTT). Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 24/3/2020 về tăng cường phối hợp và triển khai đồng bộ các biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh mạng.

Chính phủ đã ban hành: Nghị định số 14/2022/NĐ-CP ngày 27/01/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử và Nghị định số 119/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản trong đó tăng mức phạt đối với nhiều hành vi liên quan đến hoạt động báo chí, cụ thể: tăng mức phạt đối với hành vi có lời nói, hành động đe dọa tính mạng nhà báo, phóng viên mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; hủy hoại, cố ý làm hư hỏng phương tiện, tài liệu hoạt động báo chí của nhà báo, phóng viên; sử dụng thẻ nhà báo đã bị sửa chữa, tẩy xóa để hoạt động báo chí, mạo danh nhà báo, phóng viên, lợi dụng tư cách nhà báo, phóng viên can thiệp, cản trở hoạt động đúng pháp luật của tổ chức, cá nhân… nhằm tăng cường phòng chống vi phạm pháp luật, đảm bảo môi trường thông tin lành mạnh.

Nghị định số 147/2024/NĐ-CP ngày 09/11/2024 thay thế Nghị định số 72/2013/NĐ-CP và Nghị định số 27/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng nhằm (i) tạo được hành lang pháp lý nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn thi hành Nghị định số 72/2013,NĐ-CP, bắt kịp xu thế phát triển của công nghệ số, các dịch vụ internet và thông tin trên mạng đồng thời đảm bảo tính kế thừa của các quy định còn phù hợp của Nghị định; (ii) tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài; (iii) tăng cường quản lý việc cung cấp thông tin và đảm bảo an ninh thông tin trên mạng internet; (iv) bảo đảm quyền lợi của người sử dụng các dịch vụ thông tin trên mạng; (v) thúc đẩy quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam an toàn, bền vững và phát triển thị trường dịch vụ trung tâm dữ liệu.

Các cơ quan chức năng phối hợp với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cũng chủ động rà quét trên không gian mạng Việt Nam để chủ động ngăn chặn, xử lý, đề nghị gỡ bỏ các bài viết, thông tin lừa đảo, sai sự thật, xuyên tạc về Việt Nam, thành lập Trung tâm xử lý Tin giả Việt Nam (VAFC) với chức năng, nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan chức năng thẩm định, công bố tin giả; đánh giá xu hướng thông tin chia sẻ, tương tác lớn để dán nhãn cảnh báo tin giả; tiếp nhận, phát hiện, thẩm định, gắn nhãn tin giả; công bố thông tin xác thực; hướng dẫn cách nhận biết, phòng tránh, đối phó với tin giả. Việt Nam cũng yêu cầu và giám sát các công ty nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam phải tuân thủ các quy định của pháp luật và thực thi mạnh mẽ chính sách bảo vệ người dùng Việt Nam.

Tháng 5/2024, Việt Nam đã đạt được thỏa thuận với Facebook trong đó Facebook cam kết thực hiện một số nội dung: (1) tiếp nhận không giới hạn đối với các vi phạm liên quan đến dân sự như xử lý các group liên quan đến trẻ em, lừa đảo, quảng cáo vi phạm, bản quyền... và (2) mở rộng danh sách các nhóm ưu tiên xử lý. Youtube cũng đã giảm thời gian xử lý video vi phạm xuống còn 2-3 tiếng và đang xây dựng công cụ để rà soát, ngăn chặn các video vi phạm đã bị gỡ nhưng đăng tải lại trên các kênh Youtube khác.

Tiktok cam kết bằng văn bản thực hiện: (1) xử lý các yêu cầu gỡ bỏ một cách kịp thời theo quy định của pháp luật và sẽ tiếp tục hợp tác với Việt Nam để cải thiện thủ tục liên lạc, gỡ bỏ nội dung vi phạm; (2) nâng cấp đội ngũ kiểm duyệt viên tại Việt Nam; (3) tăng cường các biện pháp bảo vệ trẻ em và (4) hỗ trợ các nguồn lực cần thiết để triển khai các chương trình nâng cao kỹ năng số cho giới trẻ, xây dựng không gian mạng an toàn, tích cực, chống tin giả, tin sai lệch và lừa đảo trực tuyến.

4. Thúc đẩy truyền thông nâng cao nhận thức về quyền con người

Nâng cao nhận thức về quyền con người, tuyên truyền kiến thức về quyền con người có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức xã hội, phòng ngừa vi phạm và giúp người dân biết cách tự bảo vệ quyền và tự do của bản thân, đồng thời tôn trọng quyền và tự do của người khác phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của các chuẩn mực trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con người.

Ngày 14/9/2022, căn cứ nhu cầu thực tiễn và các cam kết thực thi khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1079/QĐ-TTg phê duyệt Đề án truyền thông về quyền con người ở Việt Nam nhằm nỗ lực thúc đẩy sự tham gia của truyền thông vào nâng cao nhận thức, kiến thức, hiểu biết về quyền con người; chủ động, tích cực và thúc đẩy mạnh mẽ tự do ngôn luận, tiếp cận thông tin.

Các cơ quan chức năng và báo chí cũng thường xuyên tuyên truyền, phổ biến cho người dân về ý thức bảo vệ thông tin cá nhân khi tham gia các hoạt động trên không gian mạng; theo dõi, rà soát tình hình lộ lọt, mua bán thông tin cá nhân của các cơ quan, tổ chức tại Việt Nam và cảnh báo, hỗ trợ xử lý kịp thời.

Bên cạnh việc nâng cao “sức đề kháng” cho người dùng internet, truyền thông cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện, phê phán các hành vi sai phạm khi sử dụng mạng xã hội; vạch trần âm mưu, thủ đoạn lợi dụng Internet và mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam; làm rõ những hoạt động kinh doanh vi phạm pháp luật Việt Nam của các trang mạng nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam.

Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội cho các nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng mạng xã hội Việt Nam cũng đã được ban hành hướng tới xây dựng môi trường mạng lành mạnh, an toàn tại Việt Nam. Bộ Quy tắc ứng xử này đóng vai trò như một khuôn khổ thể chế “mềm”, để bổ sung cho các khung pháp lý chính thức của Nhà nước (Quyết định số 874/QĐ-BTTTT ngày 17/6/2021).

Các cơ quan chức năng triển khai chiến dịch bóc gỡ mã độc trên toàn quốc nhằm loại bỏ nguy cơ mã độc đánh cắp thông tin cá nhân. Các hoạt động như phát hành cẩm nang bảo đảm an toàn thông tin trong đó có hướng dẫn các biện pháp để bảo vệ tài khoản, bảo vệ thông tin cá nhân; cẩm nang "Phòng chống, giảm thiểu rủi ro từ tấn công Ransomware"; thiết lập kênh trực tuyến tiếp nhận thông tin phản ánh về thông tin cá nhân và cung cấp công cụ trực tuyến cho phép người dân có thể kiểm tra việc lộ lọt thông tin cá nhân tại website khonggianmang.vn; triển khai hệ sinh thái tín nhiệm mạng (tinnhiemmang.vn) để đánh giá, xác nhận website đảm bảo an toàn thông tin mạng, bảo vệ thông tin cá nhân người dùng…

Triển khai kế hoạch truyền thông nâng cao ý thức người dùng mạng internet tại Việt Nam với các chuỗi chương trình cụ thể như: (1) phát động chiến dịch “Tin” với các chuỗi hoạt động như: cuộc thi thực hiện điệu nhảy và hát với chủ đề “Anti Fake News”; (2) talkshow “Tin nên Tin”; (3) cuộc thi vẽ tranh và thiết kế online “miễn dịch TIN xấu”; (4) hội thảo “NEWStrition - Miễn dịch TIN xấu”; (5) Đại sứ chiến dịch TIN... để phòng chống, đẩy lùi tin giả, thông tin xấu độc.

Trung tâm xử lý Tin giả Việt Nam (VAFC - Bộ TTTT) được thành lập ngày 12/01/2021 với chức năng, nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan chức năng thẩm định, công bố tin giả; đánh giá xu hướng thông tin chia sẻ, tương tác lớn để dán nhãn cảnh báo tin giả; tiếp nhận, phát hiện, thẩm định, gắn nhãn tin giả; công bố thông tin xác thực; hướng dẫn cách nhận biết, phòng tránh, đối phó với tin giả. Tính đến nay VAFC đã tiếp nhận 3161 thông tin phản ánh, trong đó đã xác thực thông tin, công bố 47 thông tin và đăng tải trên website của VAFC tại tên miền tingia.gov.vn.

Có thể khẳng định, đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin ở Việt Nam trong một thế giới nơi công nghệ truyền thông số phát triển đã tạo thuận lợi cho người dân thực hiện việc tìm kiếm, tiếp nhận, truyền đạt các thông tin, ý kiến một cách dễ dàng. Bên cạnh các thành tựu đạt được, Việt Nam cũng như các nước cũng đang đứng trước các thách thức do các vấn đề an ninh phi truyền thống, thông tin xấu độc, tin giả đặt ra, xâm hại trực tiếp đến chất lượng thụ hưởng thông tin và các quyền con người.

Các nỗ lực tìm kiếm, hoàn thiện khung khổ pháp lý, chuẩn mực quốc tế mới từ cách tiếp cận quyền đối với vấn đề đảm bảo quyền tự do ngôn luận, internet hiện nay đòi hỏi phải có sự phối hợp, hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế, hợp tác công - tư trong việc xây dựng chính sách pháp luật và triển khai thực tiễn nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền tự do biểu đạt, quyền tiếp cận thông tin của người dân; hỗ trợ báo chí truyền thông, đấu tranh chống tin giả, chuyển đổi số mạnh mẽ đi đôi với bảo vệ quyền con người trong xã hội số.

Nguyễn Thị Thu Hường

Cục Thông tin cơ sở và Thông tin đối ngoại

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Đọc thêm