Vài thập niên gần đây, thời tiết Tây Nguyên đã thay đổi đến lạ thường. Mọi năm đến tháng 4, tháng 5 là bắt đầu vào mùa mưa, tháng 7, tháng 8 mưa dầm để đến khoảng tháng 10, tháng 11 chuyển sang mùa khô. Những người sống ở Tây Nguyên chừng 30-40 năm có lẽ còn nhớ: có những năm trời mưa liên miên, đất đầy rong rêu bám, mực nước dâng cao đến mức các giếng đào đều có thể dùng gáo, dùng ca múc nước.
Vậy mà trong những năm gần đây hầu như đến giữa mùa khô là các giếng đều cạn, nhiều công trình thủy lợi trơ đáy. Bà con các huyện Krông Pa, Ia Pa (Gia Lai) phải ra bờ sông đào sâu xuống cát gạn, chắt lấy nước gùi về dùng.
Theo Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên thì dòng chảy năm ở các sông thuộc khu vực Tây Nguyên nhỏ hơn trung bình nhiều năm từ 10% trở lên, cá biệt có nơi hụt tới 50-60%, nhất là những năm có hiện tượng El Nino.
Tây Nguyên hiện có đến hàng trăm công trình thủy điện lớn nhỏ xây dựng trên hệ thống sông Sê San như: Ia Ly, Sê San 3, Sê San 3A, Sê San 4; trên hệ thống sông Ba: An Khê-Ka Nát, Ayun Hạ, Sông Ba Hạ; trên hệ thống sông Sê rê pôk: Buôn Tuôr, Buôn Kuôp, Sê rê pôk 3, Sê rê pôk 4, Đray Hling...
Các công trình thủy điện không chỉ làm thay đổi cấu tạo địa chất của vùng và dòng chảy mà còn làm ảnh hưởng lớn đến môi trường toàn lưu vực, đặc biệt là vùng hạ lưu. Đó là chưa kể đến thiệt hại về nguồn sinh thủy, đặc biệt là các loài cá nước ngọt do việc xây dựng các đập thủy điện đã chắn đường đi của các loài cá vốn sống trên dòng chảy sông suối.
|
Chị T'Rec lấy nước mỗi ngày ba lần dưới hố này. Ảnh: Trần Hóa |
Hệ lụy của việc phát triển thủy điện và tác động xâm hại của con người đã làm cho rừng Tây Nguyên bị thu hẹp đáng kể. Theo ảnh viễn thám của Bộ Tài nguyên Môi trường chụp năm 2012, diện tích rừng có trữ lượng ở Tây Nguyên chỉ còn khoảng 1,8 triệu ha, độ che phủ chỉ đạt 32,4%. Đồng thời tại Hội nghị đánh giá công tác Quản lý Bảo vệ rừng các tỉnh Tây Nguyên do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức ngày 21/9/2012 tại thành phố Pleiku, Gia Lai thì trong 4 năm (2007-2011) diện tích rừng Tây Nguyên bị mất lên đến 129.686 ha.
Và tính đến nay, trong 10 năm qua, trung bình mỗi năm Tây Nguyên bị mất 46.267 ha rừng tự nhiên, toàn vùng cũng có hơn 344.000 ha đất qui hoạch lâm nghiệp đang sản xuất nông nghiệp (số liệu tại Hội nghị phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập trên đất lâm nghiệp vùng Tây Nguyên do Ban Kinh tế Trung ương phối hợp cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Tỉnh ủy Lâm Đồng tổ chức ngày 4/7/2020 tại thành phố Đà Lạt).
Rừng bị mất dần không chỉ do làm thủy điện mà còn do nhu cầu lấy đất sản xuất. Trước lợi ích kinh tế mang lại của các loại cây công nghiệp dài ngày vốn phù hợp với thổ nhưỡng, tiểu vùng khí hậu, trong những năm qua các tỉnh Tây Nguyên đã nhanh chóng tăng diện tích các loại cây cần nhiều nước tưới như: cà phê, hồ tiêu đến mức vượt qui hoạch đến năm 2020.
Tính đến nay, Tây Nguyên có hơn 550.000 ha cà phê (Ðắk Lắk trên 200.000 ha, Lâm Đồng trên 150.000 ha, Đak Nông trên 120.000 ha...); khoảng 40.000 ha hồ tiêu (Gia Lai trên 13.000 ha, Ðắk Lắk 11.080 ha, Đak Nông trên 10.000 ha...) ấy là chưa kể chanh dây, mắc ca, cỏ voi... là các loại cây trồng đang có xu hướng tăng diện tích ở các tỉnh bắc Tây Nguyên. Trung bình mỗi gốc cà phê cần đến 400-500 lít nước trong mỗi đợt tưới, thử hỏi chừng ấy diện tích sẽ tiêu tốn đến bao nhiêu tỷ khối nước trong ba bốn đợt tưới?
Những yếu tố trên đã trực tiếp tác động đến hệ thống nước ngầm trên toàn địa bàn Tây Nguyên. Theo kết quả quan trắc của Đoàn Địa chất Thủy văn 704, tại các huyện Krông Pak, Lak, Krông Puk (Ðắk Lắk) từ năm 2004 các giếng nước ngầm có thể cho khai thác 0,4-0,6 triệu mét khối/ngày/giếng thì nay khai thác chưa đến 300.000 mét khối/ngày/giếng.
Tình hình này ở Gia Lai cũng không hơn. Theo kết quả đề tài khoa học Đánh giá cân bằng, định hướng sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Gia Lai của nhóm tác giả thuộc Liên đoàn Địa chất Thủy văn Miền Trung và Sở Khoa học Công nghệ Gia Lai thì trữ lượng khai thác tiềm năng nước dưới đất theo các vùng cân bằng năm 2010 là: vùng nam bắc An Khê 1.451.506 m3/ngày, vùng nam bắc Pleiku 1.492.608 m3/ngày, vùng nam Ayun 1.012.424 m3/ngày, vùng Ayunpa 528.633 m3/ngày, vùng Krôngpa 532.348 m3/ngày.
Thế nhưng thực tế đến nay nhiều địa phương trong tỉnh do cần nước tưới cà phê, hồ tiêu nên người dân đã tự thuê mướn dịch vụ khoan giếng lấy nước ngầm tưới vườn, nhiều giếng khoan sâu đến hàng trăm mét, làm ảnh hưởng lớn đến hệ thống nước ngầm dưới lòng đất, ảnh hưởng đến cấu tạo địa chất của cả vùng. Ngay tại thành phố Pleiku, năm 2005 toàn thành phố chỉ có 47 giếng khoan thì năm 2011 lên đến hơn 200 giếng, trong đó chỉ có 70 giếng có phép, còn hiện nay số lượng giếng khoan của Pleiku là bao nhiêu thì ngành quản lý chưa nắm được nhưng chắc chắn không dưới 5000 giếng.
|
Người dân ở huyện Krông Năng (Ðắk Lắk) nạo vét giếng lấy nước tưới cà-phê. Ảnh: Trung Chuyên |
Một nguy cơ khác đang trực tiếp đe dọa đến sức khỏe của người dân. Đó là địa hình của Gia Lai phổ biến là cao nguyên, sau đó là đồi núi chiếm đến 2/5 diện tích toàn tỉnh. Các tầng nước nông trên địa bàn hiện bị ô nhiễm khá trầm trọng, chỉ có tầng nước sâu không bị ô nhiễm do được bảo vệ bởi các tầng chứa nước phía trên, tuy nhiên cần có biện pháp bảo đảm an toàn khi khoan và khai thác giếng khoan hợp lý.
Theo Báo cáo hiện trạng bảo vệ môi trường Gia Lai từ năm 2010: môi trường nước mặt tại hầu hết các điểm được quan trắc cho thấy bị ô nhiễm BOD5, COD và ni tơ, nghiêm trọng nhất là ở lưu vực sông Ba. Kể cả môi trường nước ngầm ở một vài thời điểm cũng có dấu hiệu chua hòa, ô nhiễm nitrat, nitrit, kim loại nặng; nghiêm trọng nhất là nguồn nước ở các phường Thắng Lợi, Diên Hồng, Ia Kring (T.P Pleiku) bị nhiễm dầu, nhiễm phèn; thị xã An Khê, xã Ia Mơr (Chư Prông), Hbông (Chư Sê), các xã của huyện Krôngpa đã thiếu nước trầm trọng, mạch nước ngầm lại bị ô nhiễm vôi và phèn, người dân không thể sử dụng được.
Trong khi đó theo Quyết định số 01/2015 QĐ-UBND của UUBND tỉnh Gia Lai về việc phê duyệt Quy hoạch tài nguyên nước tỉnh Gia Lai đến năm 2025, mục tiêu cụ thể: đảm bảo nguồn nước sinh hoạt năm 2015 với 40 triệu m3/năm, đến 2020 với 47,7 triệu m3/năm và 57,8 triệu m3/năm đến năm 2025. Phân bổ hài hòa, hợp lý tài nguyên nước cho ngành nông nghiệp đến 2015 với 1304 triệu m3/năm, năm 2020 là 1691 triệu m3/năm và năm 2025 là 1922 triệu m3/năm...
Trước những nguy cơ đã nêu, chính quyền các địa phương và ngành chức năng cần triển khai ngay những giải pháp nhằm khắc phục, cụ thể là quản lý chặt chẽ việc khoan giếng lấy nước ngầm, xây dựng các nhà máy nước cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt của người dân; xây dựng hệ thống nước thải sản xuất, sinh hoạt ở các đô thị, không cho xả thải trực tiếp ra môi trường; không mở rộng diện tích cây công nghiệp dài ngày mà thâm canh diện tích hiện có... để bảo vệ tài nguyên nước và sức khỏe của người dân.
Và vấn đề cốt lõi là phải bảo vệ tốt diện tích rừng tự nhiên hiện còn, đồng thời không ngừng trồng mới đúng theo kế hoạch mà ngày 10/11/2020 Thủ tướng Chính phủ đã phát biểu đề xuất trước Quốc hội: cả nước phải trồng được 1 tỉ cây xanh trong 5 năm tới!