Nhà băng cẩn trọng cho vay các dự án dệt may

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Ngành Dệt may được đánh giá là một trong các ngành kinh tế có mức độ rủi ro môi trường và xã hội cao so với các ngành, lĩnh vực kinh tế khác do quá trình sản xuất cần phải khai thác, sử dụng và xả thải một lượng nước lớn...
 Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Tại Hội thảo “Đánh giá rủi ro môi trưởng và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng đối với ngành Dệt may” do Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) tổ chức mới đây, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký VNBA cho biết, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về chống biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành chỉ thị, quyết định, văn bản quy định về thúc đẩy tăng trưởng “tín dụng xanh” và quản lý rủi ro môi trường phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường, giảm phát thải các bon…

Đáng chú ý, Chỉ thị 03/CT-NHNN ngày 24/03/2015 về thúc đẩy tăng trưởng “tín dụng xanh” và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị chức năng của NHNN, rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế tín dụng cho phù hợp với mục tiêu “tăng trưởng xanh”; Đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) tập trung ưu tiên cấp tín dụng cho các dự án sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường, chủ động nghiên cứu, xây dựng hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng...

Ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về “tăng trưởng xanh” đến năm 2020 với 3 giải pháp: Tăng cường năng lực cho hệ thống ngân hàng trong thực hiện ngân hàng - “tín dụng xanh”; Đẩy mạnh triển khai các sản phẩm ngân hàng - “tín dụng xanh”, hỗ trợ các DN thực hiện “tăng trưởng xanh”; Tăng cường tuyên truyền, phổ biến về hoạt động ngân hàng - “tín dụng xanh”.

Tháng 8/2020, NHNN ban hành sổ tay đánh giá các rủi ro môi trường và xã hội của 20 ngành kinh tế, trong đó có ngành Dệt may.

Các TCTD đã tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc bằng việc xây dựng chính sách cấp tín dụng ưu đãi đối với khách hàng có phương án, dự án sản xuất kinh doanh đáp ứng mục tiêu “tăng trưởng xanh”.

Dệt may bị “soi” kỹ khi cấp tín dụng

Ngành Dệt may được đánh giá là một trong các ngành kinh tế có mức độ rủi ro môi trường và xã hội cao so với các ngành, lĩnh vực kinh tế khác do quá trình sản xuất cần phải khai thác, sử dụng và xả thải một lượng nước lớn, đồng thời sử dụng nhiều năng lượng cho việc đun nóng, tạo ra hơi nước, dẫn đến tác động lên nguồn nước và góp phần gia tăng khí thải nhà kính. Do đó, TCTD đánh giá rất kỹ rủi ro về môi trường khi cấp tín dụng đối với ngành này…

Đến tháng 11/2021, có 67 tổ chức tín dụng triển khai “tín dụng xanh”. Dư nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh chiếm khoảng hơn 4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Đây là con số còn rất khiêm tốn trong bối cảnh xu hướng tăng trưởng xanh hiện nay.

Số liệu của NHNN cho biết, dư nợ đối với ngành này chỉ khoảng 145.000 tỷ đồng (tăng khoảng 5.000 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2020), chiếm gần 1,5% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế.

Tổng Thư ký VNBA khẳng định, mục tiêu “xanh hoá” sản xuất, nâng cao trách nhiệm và thực hiện đầy đủ các quy định về bảo vệ môi trường trong sản xuất là yêu cầu cấp bách, mang tính chiến lược của ngành Dệt may nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng và thu hút dòng vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

Theo bà Hoàng Thị Thanh Nga - Trưởng nhóm ngành Dệt may của WWF, có 4 lý do chính lý giải cho sự cần thiết của chương trình “xanh hóa” dệt may đối với Việt Nam. Đầu tiên, để tận dụng các cơ hội miễn/giảm thuế quan của các FTA với châu Âu và các nước (EVFTA, CPTTP), Việt Nam cần đảm bảo các yêu cầu của FTA về nguồn nguyên liệu (từ vải hoặc sợi trở đi, đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường - xã hội). Cùng với đó, để đảm bảo an ninh nước, năng lượng và các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, Chính phủ đang thắt chặt các quy định, thuế quan liên quan đến nước, năng lượng và sử dụng hóa chất, đồng thời chính quyền địa phương cũng rất cẩn trọng về tác động môi trường của dự án dệt vải khi cấp phép đầu tư.

Ngoài ra, ngày càng nhiều nhãn hàng cam kết với các mục tiêu bền vững và đặt ra tiêu chí rõ ràng cho chuỗi cung ứng của họ. Đặc biệt, Việt Nam đang mất dần các lợi thế cạnh tranh truyền thống (giá rẻ, yêu cầu thấp với FDI) và cần phải tạo ra lợi thế cạnh tranh mới bằng cách chuyển đổi sang sản xuất tại Việt Nam một cách bền vững.

Đọc thêm