Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

PGS. TS Đinh Dũng Sỹ: Cần có cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán

(PLVN) - Theo Chuyên gia pháp luật, PGS. TS Đinh Dũng Sỹ, để đưa Nghị quyết 27 vào cuộc sống, ở góc độ đáp ứng yêu cầu mới của doanh nghiệp , cần chú ý triển khai, thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp.Báo Pháp luật Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của ông về vấn đề này.
Chuyên gia pháp luật, PGS. TS Đinh Dũng Sỹ

Chuyên gia pháp luật, PGS. TS Đinh Dũng Sỹ

RÀ SOÁT, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT, TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT NGHIÊM MINH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU MỚI CỦA DOANH NGHIỆP

Từ những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đề ra, để đưa Nghị quyết 27 vào cuộc sống, PGS.TS Đinh Dũng Sỹ, chuyên gia pháp luật, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Văn phòng Chính phủ nhận thấy, ở góc độ đáp ứng yêu cầu mới của doanh nghiệp, cần chú ý triển khai, thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp.

Ngày 9/11/2022, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong mục tiêu cụ thể đến năm 2030 đã xác định: xây dựng “Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán”.

Về nhiệm vụ và giải pháp, Nghị quyết cũng đã chỉ rõ: Hệ thống pháp luật phải lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước; nhất là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.

Từ những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nói trên, để đưa Nghị quyết 27 vào cuộc sống, chúng tôi nhận thấy, ở góc độ đáp ứng yêu cầu mới của doanh nghiệp cần chú ý triển khai, thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau đây:

1. Thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực. Việc rà soát, hoàn thiện phải lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo.

1.1. Về cách tiếp cận vấn đề, việc rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, điểm mấu chốt là nằm ở doanh nghiệp, cần phải lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp. Xây dựng chính sách, pháp luật không phải thuần túy xuất phát từ nhà hoạch định chính sách muốn gì mà phải biết doanh nghiệp cần gì. Một Nhà nước kiến tạo phát triển chính là biết lắng nghe ý kiến của người dân và doanh nghiệp, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm; tạo lập một hành lang pháp lý đầy đủ, thông thoáng, minh bạch và an toàn cho doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh cũng như đời sống của người dân.

1.2. Về giải pháp cho vấn đề này, Chính phủ cần có cơ chế tiếp nhận, phản hồi và xử lý các phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp và người dân, từ đó tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật, nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn hoạt động đầu tư, kinh doanh, cuộc sống của người dân, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. Để thực hiện giải pháp này thì Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phải giữ vai trò trung tâm, phối hợp với các hiệp hội ngành hàng thu thập những phản ánh, kiến nghị của các doanh nghiệp; có cơ chế phối hợp với Chính phủ trong tiếp nhận, phản hồi và tiếp thu, điều chỉnh chính sách, pháp luật phù hợp, kịp thời.

1.3. Về nội dung rà soát pháp luật, chúng tôi kiến nghị cụ thể như sau:

- Thứ nhất, rà soát về các mô hình tổ chức doanh nghiệp, theo đó là mô hình quản trị doanh nghiệp. Vấn đề này hiện nằm chủ yếu trong Luật Doanh nghiệp và Luật Hợp tác xã.

* Về Luật Doanh nghiệp, đạo luật này mới được sửa đổi, bổ sung năm 2020. Về cơ bản các mô hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay đã tiệm cận đến hầu hết các mô hình doanh nghiệp ở các nước kinh tế thị trường hiện đại, từ công ty cổ phần, CTTNHH một thành viên, hai thành viên trở lên, công ty hợp danh đến hoạt động kinh doanh một chủ (doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh). Tuy nhiên, cần tiếp tục rà soát về các quyền và nghĩa vụ của các thành viên, cổ đông trong công ty cũng như về quản trị, điều hành công ty, bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của họ cũng như cập nhật các mô hình quản trị công ty hiện đại, nhất là đối với mô hình công ty cổ phần đại chúng để sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp trong tương lai.

* Đối với mô hình kinh doanh một chủ: Hiện nay ở Việt Nam đang tách thành hai loại với hai chính sách, cơ chế pháp lý khác nhau: một loại là doanh nghiệp nếu được thành lập theo mô hình Doanh nghiệp tư nhân của Luật Doanh nghiệp; một loại là hộ kinh doanh. Loại hộ kinh doanh hiện nay chưa có luật điều chỉnh mà mới chỉ có Nghị định của Chính phủ. Chúng tôi đề nghị cần sớm xây dựng Luật này để có cơ sở pháp lý vững chắc cho quản lý và hoạt động của loại hình kinh doanh một chủ rất phổ biến này ở nước ta hiện nay với tên gọi là hộ kinh doanh.

* Mặt khác, trong điều kiện kinh tế hiện đại, có nhiều biến động lớn mang tính toàn cầu, xuyên quốc gia, như việc Nhà nước tham gia hoặc ký kết các hiệp định thương mại, đầu tư hoặc các quy tắc, quy chuẩn mới về đầu tư, thương mại, ngân hàng, thuế quốc tế... thì các cơ quan chức năng nhà nước cần kết hợp với các hiệp hội doanh nghiệp tuyên truyền, hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận để tận dụng cơ hội cho kinh doanh và phát triển cũng như đều chỉnh chiến lược đầu tư, kinh doanh của mình (chẳng hạn như Hiệp định CPTPP, EVFTA, EVIPA, bộ tiêu chuẩn Basel 2, Basel 3 trong hoạt động ngân hàng, hay là Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu của OECD được áp dụng từ năm 2024...); đồng thời Nhà nước cũng cần thiết phải chủ động nghiên cứu, điều chỉnh chính sách phù hợp để khuyến khích, thu hút đầu tư…

- Thứ hai, rà soát, sửa đổi, bổ sung các đạo luật, bảo đảm các quyền của doanh nghiệp như sau:

* Quyền tự do kinh doanh (Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư...). Về cơ bản các quyền này đã được bảo đảm. Tuy nhiên, vẫn cần thiết tiếp tục rà soát danh mục các ngành nghề cấm kinh doanh và ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong Luật Đầu tư; đồng thời quan tâm đến khâu tổ chức thực thi, cải cách thủ tục hành chính, chấn chỉnh đội ngũ công chức trong thực thi công vụ để bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ của doanh nghiệp được thực hiện trong thực tiễn.

* Quyền sở hữu tài sản, lợi nhuận thu được (Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư...). Các quyền này về cơ bản đã được ghi nhận và bảo đảm thực hiện từ Hiến pháp đến các đạo luật liên quan. Tuy nhiên, cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, các luật về đất đai, tín dụng... để bảo đảm hài hòa trong điều tiết thu nhập của doanh nghiệp, hài hòa trong mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.

* Quyền tự do hợp đồng (Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, các đạo luật chuyên ngành...). Cần rà soát, sửa đổi Luật Thương mại và các đạo luật chuyên ngành, bảo đảm quyền tự do hợp đồng, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài sản, tài chính, về nghĩa vụ của các doanh nghiệp.

* Quyền bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh (Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Luật Đấu thầu và các đạo luật chuyên ngành khác). Luật Cạnh tranh mới được sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên vẫn cần được rà soát, sửa đổi (nếu cần) cùng với Luật Đấu thầu, Luật Thương mại và các luật chuyên ngành khác. Đồng thời, chú ý khâu tổ chức thực thi, đặc biệt là khắc phục tình trạng tiêu cực trong đấu thầu, đấu giá, trong tiếp cận các nguồn lực đất đai, tín dụng.

* Quyền tiếp cận các nguồn lực: đất đai, lao động, điện, tài chính, tín dụng... (Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Điện lực, Luật Chứng khoán...). Về bảo đảm các quyền này, Nhà nước đã và đang rà soát, sửa đổi, bổ sung một loạt các luật có liên quan nói trên.

* Quyền chủ động trong đổi mới, sáng tạo. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích và bảo vệ các doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo. Đặc biệt là chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp trong đổi mới, ứng dụng công nghệ hiện đại, thân thiên với môi trường, trong chuyển đổi số để tự vươn lên và phát triển. (Cần sửa Luật Đầu tư về chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư trong ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, các đạo luật về thuế trong ưu đãi đầu tư, điều tiết thu nhập...).

2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội

Về đặc trưng của nền kinh tế thị trường cũng như nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và vấn đề xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được nghiên cứu và làm rõ từ khá lâu. Tuy nhiên, về mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội thì lần đầu tiên được nói đến trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, năm 2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó “Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội”. Đến Đại hội XIII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ” và được xem là một trong 10 mối quan hệ lớn cần được nhận thức và xử lý đúng đắn.

Vậy vai trò của các chủ thể và bản chất của mối quan hệ ba bên này là gì, cần được nhận thức đúng và thể chế hóa thành luật pháp để thực hiện:

Về vai trò của Nhà nước: Có thể khái quát là Nhà nước giữ vai trò kiến tạo phát triển. Nếu trong cơ chế kinh tế cũ, nhà nước làm tất cả từ vĩ mô đến vi mô thì hiện nay Nhà nước tập trung vào việc “Xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng thúc đẩy kinh tế phát triển... Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, cơ chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, quy chuẩn...” (Văn kiện Đại hội XIII của Đảng).

Về vai trò của thị trường: Cần nhận thức và tôn trọng các quy luật của thị trường. “Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hang hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém” (Văn kiện Đại hội XIII của Đảng). Bản chất của mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là Nhà nước giữ vai trò kiến tạo phát triển, định hướng và điều tiết nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, các giá trị văn hóa và bảo vệ môi trường; tôn trọng các quy luật của thị trường; Doanh nghiệp được quyền tự do kinh doanh, được làm những gì mà pháp luật không cấm.

Về vai trò của xã hội: Đó là quan tâm đến vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; vai trò, lợi ích của người dân và các chủ thể khác trong xã hội. Trong đó “các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết các vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật” (Văn kiện Đại hội XIII của Đảng).

Trong thực tiễn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội thì mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân là cơ bản và tập trung nhất. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN luôn phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Bảo đảm hài hòa mối quan hệ lợi ích này chính là cơ sở cho sự ổn định và phát triển. Thực tiễn trong lĩnh vực đất đai đã cho thấy rõ tầm quan trọng của việc xử lý mối quan hệ này. Chính vì vậy, Nghị quyết số 18 Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII của Đảng về đổi mới, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai đã đặc biệt nhấn mạnh việc xử lý hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân trong quản lý, sử dụng đất.

3. Có cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán

Thực tiễn hiện nay đang cho thấy, khâu tổ chức thi hành pháp luật vẫn là khâu yếu. Nhiều báo cáo của Quốc hội, Chính phủ cũng đã chỉ rõ điểm hạn chế này. Sau hơn ba thập kỷ đổi mới, chúng ta đã xây dựng được một hệ thống pháp luật cơ bản đồng bộ, đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt là chuyển đổi nền kinh tế, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, khâu tổ chức thi hành pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, đặc biệt là về phương thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa đa dạng, phù hợp; sự đồng bộ trong tổ chức thực thi chính sách, nhất là vấn đề nguồn lực tài chính còn nhiều hạn chế; về thể chế, chúng ta còn thiếu một đạo luật quan trọng là đạo luật về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật... Bởi vậy, pháp luật chậm đi vào cuộc sống, nhận thức và ý thức pháp luật còn kém, dẫn đến tình trạng vi pháp luật còn nhiều, xử lý cũng chưa nghiêm minh, nhất quán.

Trong thời gian tới, Nhà nước cần tập trung xây dựng, hoàn thiện các chính sách, thể chế về tổ chức thi hành pháp luật, cụ thể là cần sớm xây dựng và ban hành Luật Tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật, xác định rõ quy trình, thủ tục cũng như thẩm quyền, trách nhiệm của các chủ thể cả Nhà nước và xã hội trong tổ chức thi hành pháp luật; đồng bộ hóa các chính sách trong tổ chức thi hành pháp luật, nhất là bảo đảm nguồn lực tài chính đủ mạnh cho tuyên truyền, phổ biến và thực thi pháp luật; xây dựng và ban hành hệ thống chế tài đủ mạnh, đi liền với xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật, khắc phục tình trạng “nhờn luật” trong thực tiễn ở nhiều lĩnh vực hiện nay.

Đối với các doanh nghiệp, Nhà nước cần đặc biệt chú trọng đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp; đồng thời nâng cao nhận thức về quyền của doanh nghiệp cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước, đối với xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, việc đổi mới tuyên truyền, phổ biến pháp luật đối với doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý đến các yếu tố: môi trường số; nâng cao vai trò, năng lực và thói sử dụng đội ngũ pháp chế doanh nghiệp và các thiết chế bổ trợ tư pháp khác đối với hoạt động của doanh nghiệp. Theo đó, cũng cần rà soát sửa đổi, bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Trọng tài thương mại, Luật Luật sư, Luật Thi hành án dân sự... đáp ứng yêu cầu phát triển doanh nghiệp trong giai đoạn mới.

PGS. TS Đinh Dũng Sỹ

Đọc thêm