2 phương án phân vùng
Hiện nay, nước ta được phân thành 6 vùng kinh tế - xã hội, gồm vùng trung du và miền núi phía Bắc (14 tỉnh), vùng Đồng bằng sông Hồng (11 tỉnh, thành phố), vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (14 tỉnh, thành phố), vùng Tây Nguyên (5 tỉnh), vùng Đông Nam Bộ (6 tỉnh, thành phố) và vùng Đồng bằng sông Cửu Long (13 tỉnh, thành phố).
Triển khai Luật Quy hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động nghiên cứu, xây dựng bộ tiêu chí và đề xuất các phương án phân vùng giai đoạn 2021-2030. Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng và các bộ, ngành về phương án phân vùng, Bộ đã trình Chính phủ 2 phương án phân vùng.
Trong đó, phương án 1 sẽ giữ nguyên 2 vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, tách vùng trung du và miền núi phía Bắc hiện tại thành vùng Đông Bắc và Tây Bắc, tách vùng duyên hải miền Trung hiện tại thành Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ (tỉnh Thừa Thiên - Huế đưa vào vùng Nam Trung Bộ), điều chỉnh 1 tỉnh (Bình Thuận) sang vùng Đông Nam Bộ và gộp 4 tỉnh Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông) vào vùng Nam Trung Bộ. Vùng Đông Nam Bộ mới được hình thành trên cơ sở vùng Đông Nam Bộ hiện nay và bổ sung thêm 2 tỉnh (Lâm Đồng và Bình Thuận).
Còn phương án 2 đề xuất tách vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung thành 2 vùng, đó là vùng Bắc Trung Bộ và vùng Nam Trung Bộ (tỉnh Thừa Thiên - Huế ở vùng Bắc Trung Bộ), mở rộng vùng Đồng bằng sông Hồng thêm các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Giang để trở thành vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
Với phương án này, vùng miền núi phía Bắc gồm 10 tỉnh; vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ gồm 15 tỉnh, mở rộng thêm 4 tỉnh là Hòa Bình, Phú Thọ, Thái Nguyên và Bắc Giang; vùng Bắc Trung Bộ gồm 5 tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên - Huế; vùng Nam Trung Bộ gồm 8 tỉnh từ Đà Nẵng đến Bình Thuận. Các vùng Tây Nguyên (5 tỉnh), Đông Nam Bộ (6 tỉnh, thành phố) và vùng Đồng bằng sông Cửu Long (13 tỉnh, thành phố) vẫn giữ nguyên như hiện nay.
Tổng hợp ý kiến các bộ, ngành và địa phương về 2 phương án phân vùng nêu trên, phương án 1 được 1 bộ và 4 tỉnh chọn; phương án 2 được 10/14 bộ, ngành và 49/59 địa phương chọn bởi nhiều yếu tố hợp lý.
Theo phương án này, các tỉnh miền núi phía Bắc có sự khác biệt rất lớn so với 4 tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Thái Nguyên và Bắc Giang về kinh tế, địa hình trong khi 4 tỉnh này có sự gắn kết hữu cơ, 2 chiều với Thủ đô Hà Nội và các địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng. Đồng thời, việc mở rộng vùng Đồng bằng sông Hồng là yêu cầu tất yếu để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, để có thêm không gian cho phát triển, đồng thời kết nối, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển của các tỉnh mở rộng…
Tạo các vùng kinh tế trọng điểm để tạo động lực phát triển
Góp ý tại cuộc họp, Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Quang Thái - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học kinh tế Việt Nam - cho rằng, trước đây, Việt Nam đã có nhiều quy hoạch, nhưng vấn đề phát triển vùng, liên kết vùng còn nhiều hạn chế. Vấn đề đặt ra là cần thể chế chính sách, pháp luật để quy hoạch gắn kết các tỉnh, thành, gắn kết nguồn lực.
Nếu không phân vùng, quy hoạch chỉ là sự cộng dồn của các địa phương. Nhân quy hoạch về phân vùng này, ông Thái cho rằng cần kiến nghị thêm về cơ chế điều hành, điều tiết trong các vùng. “Đây là điểm yếu nhất từ quy hoạch đến thực tiễn”, ông nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Trọng Hanh - nguyên Vụ trưởng Vụ Kiến trúc quy hoạch, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội – cũng cho rằng, quy hoạch đã có nhưng thiếu 3 vấn đề về thể chế rất lớn là cơ quan điều phối vùng, chính sách tài khóa vùng và chính sách liên kết vùng.
Trong đó, cơ quan điều phối vùng, chính sách tài khóa vùng không hiện diện trong các văn bản pháp luật; còn vấn đề liên kết vùng được đề cập đến nhiều, nhưng việc thực hiện còn mờ nhạt trên thực tiễn. Từ đó, ông Hanh kiến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần nghiên cứu phân vùng kỹ hơn, có căn cứ khoa học, tính tối ưu; nghiên cứu các thể chế phát triển vùng; thành lập hội đồng vùng, có chính sách tài khóa vùng, liên kết vùng giữa Nhà nước, thị trường và dân sự.
Tiến sỹ Đào Ngọc Nghiêm - nguyên Giám đốc Sở Quy hoạch kiến trúc thành phố Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch Hà Nội đề nghị, bên cạnh việc phân định vùng, cần tạo các vùng kinh tế trọng điểm, vùng đặc thù để tạo ra động lực cho phát triển. Ông Nghiêm kiến nghị vùng Thủ đô và vùng TP Hồ Chí Minh là 2 vùng đặc thù.
Bên cạnh đó, khi đã có phân vùng thì phải xây dựng quy chế hợp tác trong nội vùng, để khắc phục hạn chế hiện nay là các tỉnh phải tự xúc tiến hợp tác với nhau. Với lý do này, ông đề xuất cần có quỹ hợp tác vùng do Chính phủ quyết định vì nếu không có quỹ thì không thể đẩy mạnh hợp tác.
Phát biểu tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh, quy hoạch vùng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống quy hoạch quốc gia, là quy hoạch có tính tích hợp đa ngành, nhằm đưa ra phương hướng phát triển tổng thể, đồng bộ của toàn vùng.
Quy hoạch vùng làm nổi bật lên những đặc trưng, tạo ra không gian kết nối, hỗ trợ và phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, tinh thần, bảo vệ môi trường, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Qua ý kiến của các chuyên gia, Phó Thủ tướng nhấn mạnh những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện như mục tiêu của phân vùng; thúc đẩy hợp tác, liên kết vùng; đánh giá những tác động về chính sách thông qua kết cấu hạ tầng, thu hút nguồn vốn đầu tư, không gian phát triển của vùng...
Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, phân vùng phải tính đến sự tương đồng về yếu tố địa lý, tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa, dân tộc; phát huy tiềm năng lợi thế của vùng, các địa phương để phát triển kinh tế - xã hội… Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp các ý kiến tại cuộc họp với đa số ủng hộ phương án 2, từ đó xây dựng báo cáo trình Chính phủ quyết định về phương án phân vùng.