Dịch bệnh giảm, nguy cơ chưa hết
Theo Báo cáo của Cục Thú y, năm 2020, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản (NTTS) bị thiệt hại là hơn 46.200ha, gấp 1,9 lần so với năm 2019; ngoài ra có khoảng 10.274 lồng, bè, vèo, bể nuôi bị thiệt hại. Riêng tôm nuôi nước lợ bị thiệt hại là gần 43.340ha; trong đó, trên 6.800ha bị thiệt hại do bệnh, trên 33.000ha bị thiệt hại nhưng không rõ nguyên nhân do địa phương không lấy mẫu kiểm tra hoặc nếu có nhưng không xác định được nguyên nhân.
Từ đầu năm đến ngày 15/3, tổng diện tích NTTS bị thiệt hại gần 1.900ha, giảm 61% so với cùng kỳ năm 2020; ngoài ra có khoảng 105 lồng, bè, vèo, bể nuôi thủy sản bị thiệt hại.
Tuy đầu năm diện tích nuôi trồng bị thiệt hại do dịch bệnh có giảm nhưng theo ông Nguyễn Văn Long, Phó cục trưởng Cục Thú y, dự báo diện tích tôm nuôi tiếp tục bị thiệt hại có thể tăng mạnh và nguy cơ dịch bệnh trong thời gian tới là rất cao.
Nguyên nhân được chỉ ra là người nuôi tôm bắt đầu tăng thả nuôi, trong khi đó các điều kiện bất lợi của thời tiết như giao mùa, hạn hán, bão và lũ lụt tại một số tỉnh, xâm nhập mặn,… tiếp tục diễn biến phức tạp.
Bên cạnh đó, các loại mầm bệnh nguy hiểm như bệnh hoại tử gan tụy, bệnh đốm trắng.... còn lưu hành ở nhiều vùng nuôi, có thể xâm nhập và gây bệnh cho tôm. Các yếu tố bất lợi về thời tiết, môi trường... có thể tác động xấu làm tôm chậm lớn, kém phát triển, sức đề kháng yếu, tạo thuận lợi cho mầm bệnh phát triển, gây bệnh cho tôm.
Do đó, các địa phương cần có giải pháp khắc phục như quản lý mùa vụ nuôi, có ao lắng để trữ nước sử dụng khi cần thiết, chỉ thả giống khi bảo đảm điều kiện nuôi và sử dụng con giống có nguồn gốc rõ ràng, bảo đảm chất lượng, nghiên cứu điều chỉnh quy trình nuôi phù hợp, tổ chức giám sát chủ động dịch bệnh, lấy mẫu đối với những diện tích bị thiệt hại để xác định nguyên nhân, áp dụng các biện pháp tổng hợp phòng, chống dịch bệnh.
Dư địa tăng trưởng của ngành từ thủy sản
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, yếu tố quan trọng nhất quyết định cho phòng chống dịch bệnh thủy sản là nuôi trồng an toàn sinh học.
Bên cạnh đó, để NTTS an toàn cũng cần đảm bảo các yếu tố khác như giống, thức ăn, quy trình nuôi, chế phẩm sinh học… Đặc biệt là chế phẩm sinh học đang được sử dụng trong NTTS khá nhiều nên Bộ NN&PTNT sẽ chỉ đạo Tổng cục Thủy sản rà soát lại các chế phẩm sinh học, không để người nuôi trồng sử dụng các sản phẩm không hiệu quả mà làm tăng giá thành sản phẩm, các chỉ tiêu không đạt khiến hiệu quả giảm, kéo theo sức cạnh tranh của sản phẩm giảm.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng cho biết, Bộ NN&PTNT đã xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch quốc gia phòng chống một số bệnh nguy hiểm dịch bệnh thủy sản nuôi giai đoạn 2021-2025. Đây sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để các tỉnh, thành phố bố trí ngân sách, nguồn lực để triển khai.
“Trên cơ sở này, các tỉnh sẽ bố trí nguồn lực, xây dựng hệ thống đội ngũ thú y thủy sản để giám sát phòng chống dịch bệnh từ đó tuyên truyền cho người nuôi triển khai các quy trình nuôi chuẩn. Từ đó, từng bước xây dựng các vùng nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, đáp ứng được yêu cầu thị trường” - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Thứ trưởng cũng cho biết, trong mấy ngày tới Thủ tướng sẽ ký ban hành kế hoạch này.
“Kế hoạch quốc gia phòng chống dịch bệnh trên thủy sản không những đảm bảo mục tiêu về môi trường, tăng trưởng, xuất khẩu, an toàn thực phẩm mà ảnh hưởng trực tiếp đến người NTTS, chất lượng tăng trưởng của ngành nói chung, bởi chăn nuôi và thủy sản là 2 lĩnh vực con dư địa tăng trưởng lớn cho toàn ngành…” - Thứ trưởng nhấn mạnh.
Tăng cường phối hợp hoàn thành mục tiêu phát triển thủy sản năm 2021
Để đảm bảo mục tiêu phát triển thủy sản năm 2021, ông Trần Công Khôi, Phó Vụ trưởng Vụ NTTS, Tổng cục Thủy sản cho rằng, các địa phương cần phối hợp với Tổng cục Thủy sản và các ngành chức năng nắm bắt tình hình, thời tiết, khí hậu để rà soát, điều chỉnh và xây dựng lịch thời vụ thả giống phù hợp với từng địa phương, vùng sinh thái để tăng cường giảm thiểu thiệt hại.
Các địa phương cần thực hiện việc quan trắc, cảnh báo môi trường, dịch bệnh tại các vùng nuôi trọng điểm để kịp thời khuyến cáo người dân, thực hiện tốt các giải pháp kỹ thuật, giảm thiểu tối đa thiệt hại cho người nuôi. Đối với những địa phương chưa xây dựng và phê duyệt kế hoạch quan trắc môi trường cần khẩn trương tham mưu xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để triển khai.
Địa phương tổ chức kiểm tra, kiểm soát điều kiện cơ sở sản xuất và chất lượng giống, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường NTTS, quản lý tốt chất lượng vật đầu tư vào và kiểm soát điều kiện nuôi nhằm đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm thủy sản. Đồng thời, kiên quyết xử lý các hành vi trục lợi, ép giá, gian lận thương mại, thông tin sai sự thật… làm mất ổn định sản xuất.
Đặc biệt là khuyến khích và có giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người nuôi tổ chức liên kết sản xuất theo chuỗi, tối ưu hóa chuỗi sản xuất để giảm giá thành sản phẩm; cấp giấy xác nhận (mã số) cơ sở nuôi; chứng nhận đủ điều kiện đối với các cơ sở sản xuất thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường NTTS.