Lý do, sức ép về kinh tế, xã hội ngày càng tăng do dân số các vùng có rừng tăng nhanh, đặc biệt là tình trạng dân di cư tự do dẫn đến nhu cầu về đất ở và đất canh tác. Trong khi đó, trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp, các ngành về bảo vệ rừng còn hạn chế.
Chính quyền cơ sở một số nơi chưa thực hiện hết trách nhiệm trong QLBVR, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành còn mờ nhạt, chưa thường xuyên hoặc thiếu quyết liệt, để người dân phá rừng, xâm canh, lấn chiếm đất kéo dài khó xử lý. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác QLBVR ở một số nơi thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ;
Công tác điều tra, xử lý một số vụ phá rừng, lấn chiếm đất rừng trái phép tồn đọng kéo dài; kết quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự về lâm nghiệp còn thấp. Một bộ phận các chủ rừng không đủ năng lực, nhân lực và kinh phí để bảo vệ rừng trên lâm phần được giao; Có biểu hiện buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm, để người dân phá rừng, xâm canh, lấn chiếm đất kéo dài khó xử lý.
Trước những đề nghị của lãnh đạo UBND các tỉnh Tây Nguyên, Bộ trưởng NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường đề nghị UBND các tỉnh Tây Nguyên huy động sự vào cuộc của các lực lượng chức năng, phát hiện sớm và ngăn chặn kịp thời các hành vi phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp;
Đẩy nhanh tiến độ điều tra, xử lý các vụ án phá rừng trong thời gian qua; kiên quyết xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm lâm nghiệp và chống người thi hành công vụ. Xử lý nghiêm, kịp thời các tổ chức, cá nhân QLBVR thiếu tinh thần trách nhiệm, tiếp tay, tiêu cực để xảy ra các vụ phá rừng trong thời gian qua.
Đặc biệt, các tỉnh xây dựng phương án toàn diện về bảo vệ, phát triển rừng, trong đó xác định rõ các vấn đề nổi cộm, các điểm nóng phá rừng để tổ chức ngăn chặn, xử lý. Sớm hoàn thiện các dự án sắp xếp, bố trí ổn định dân di cư tự do để ổn định đời sống và việc làm của người dân.
Xử lý dứt điểm diện tích rừng chồng lấn giữa các tỉnh để tăng cường công tác QLBVR ở khu vực giáp ranh. Đẩy nhanh thực hiện công tác giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, đặc biệt là diện tích rừng do UBND xã đang quản lý, bảo đảm toàn bộ diện tích rừng có chủ thực sự.
Bổ sung nguồn lực, nâng cao năng lực cho lực lượng kiểm lâm bảo đảm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương, trong đó ưu tiên bố trí lực lượng cho kiểm lâm địa bàn, kiểm lâm cơ động bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng.
Khẩn trương hoàn thành sắp xếp, đổi mới các công ty lâm nghiệp, tập trung giải quyết dứt điểm những tồn tại để công ty lâm nghiệp thật sự hoạt động hiệu quả; rà soát các diện tích đất sử dụng không hiệu quả để có giải pháp xử lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nhất là đất thuộc sự quản lý của các công ty lâm nghiệp.
Sớm hoàn chỉnh việc quy hoạch ba loại rừng làm cơ sở để tăng cường công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Xây dựng giá trị rừng để làm cơ sở xử lý chủ rừng khi để xảy ra phá rừng, mất rừng. Tổng rà soát lại 14 chỉ tiêu Đề án bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng bền vững vùng Tây Nguyên giai đoạn 2016-2020, phấn đấu đến cuối năm 2020 hoàn thành các chỉ tiêu đã đề ra làm cơ sở xây dựng đề án cho giai đoạn 2021-2025./.
Báo cáo của Bộ NN&PTNT cho thấy: Đến cuối năm 2019, tổng diện tích rừng của các tỉnh Tây Nguyên còn hơn 2,5 triệu ha (bằng 17,5% diện tích rừng cả nước). Trong đó, rừng tự nhiên: gần 2,2 triệu ha, rừng đặc dụng: 479.257 ha, rừng phòng hộ: 547.822 ha, rừng trồng: 368.734 ha, rừng sản xuất: hơn 1,5 triệu ha…
Thực hiện Chỉ thị 13-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng và Đề án bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng bền vững vùng Tây Nguyên giai đoạn 2016-2030 công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng ở các tỉnh Tây Nguyên có nhiều chuyển biến tích cực.
Cụ thể, năm 2019, các tỉnh Tây Nguyên trồng được 9.197 ha rừng, khoanh nuôi tái sinh được 10.505 ha, trồng cây phân tán hơn 1,2 triệu cây, chăm sóc rừng trồng được 24.192 ha.
Qua công tác thanh, kiểm tra, các tỉnh đã xử lý, thu hồi nhiều dự án không triển khai, triển khai chậm hoặc vi phạm trong công tác QLBVR. Riêng Đắk Lắk đã thu hồi 11 dự án với diện tích 6.110 ha; Lâm Đồng thu hồi 160 dự án và thu hồi một phần của 35 dự án với diện tích 4.209 ha.
Cũng trong thời gian này, các tỉnh Tây Nguyên đã phát hiện 4.863 vụ vi phạm lâm luật, trong đó đã xử lý 4.433 vụ, gồm xử phạt vi phạm hành chính 4.119 vụ, xử lý hình sự 314 vụ, tịch thu hơn 9.898 m3 gỗ các loại, tổng số tiền nộp vào ngân sách nhà nước là 56 tỷ đồng.
Năm 2019, diện tích rừng tự nhiên ở các tỉnh Tây Nguyên giảm đến 15.753 ha, trong đó ba tỉnh có diện tích rừng giảm mạnh nhất là Đắk Lắk 11.419 ha, Đắk Nông 7.156 ha, Gia Lai 494 ha. Các điểm nóng về khai thác, vận chuyển gỗ trái phép tập trung tại các khu vực biên giới, rừng đặc dụng, khu bảo tồn thiên nhiên, khu vực giáp ranh.