Thực tiễn công tác THADS cho thấy có trường hợp Ngân sách nhà nước phải bảo đảm tài chính để thi hành án do hành vi trái pháp luật của một người thi hành công vụ gây ra thiệt hại nhưng cũng có trường hợp do nhiều người thi hành công vụ cùng gây ra thiệt hại.
Tại khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC quy định về việc thành lập Hội đồng xác định người có lỗi và trách nhiệm hoàn trả của người có lỗi gây ra thiệt hại có đề cập đến trường hợp có nhiều người có lỗi thuộc các cơ quan khác nhau cùng gây ra thiệt hại thì đại diện lãnh đạo các cơ quan này phải tham gia Hội đồng. Tuy nhiên, các quy định khác của Thông tư này lại không có nội dung nào quy định về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại trong trường hợp do nhiều người gây thiệt hại. Điều đó dẫn đến việc cơ quan, tổ chức phải thi hành án gặp khó khăn, lúng túng khi áp dụng pháp luật để thu tiền hoàn trả của người thi hành công vụ trong trường hợp vụ việc bảo đảm tài chính trong lĩnh vực THADS do nhiều người thi hành công vụ gây ra.
Ngoài ra, khoản 3 Điều 11 Thông tư liên tịch số 07 cũng có đề cập đến việc miễn, giảm mức hoàn trả đó là “Quyết định về việc miễn, giảm mức hoàn trả phải nêu rõ căn cứ pháp lý và lý do giải quyết”. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 13 của Thông tư liên tịch chỉ quy định về một trường hợp được miễn trách nhiệm hoàn trả đó là “trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả chết mà không có tài sản thừa kế thì cơ quan, tổ chức phải thi hành án có trách nhiệm xác minh, lập thành văn bản và có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú khi còn sống về việc người đó không còn di sản. Ngay sau khi hoàn thành việc xác minh, cơ quan, tổ chức phải thi hành án phải ra quyết định miễn thực hiện trách nhiệm hoàn trả”. Tuy nhiên, Thông tư không có quy định cụ thể về các trường hợp được giảm mức hoàn trả nên dễ tạo ra sự tùy tiện trong áp dụng pháp luật.
Do đó, để tháo gỡ những vướng mắc nêu trên, cần nghiên cứu sửa đổi một số nội dung của Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC. Theo đó, cần bổ sung thêm quy định về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ trong trường hợp nhiều người thi hành công vụ cùng có lỗi gây thiệt hại. Có thể quy định giống với trường hợp nhiều người thi hành công vụ cùng có lỗi gây thiệt hại trong vụ việc bồi thường nhà nước được quy định tại Điều 64, 65 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và Điều 27 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Cùng với đó, cần sửa đổi, bổ sung thêm quy định về các trường hợp được miễn, giảm trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ có lỗi gây thiệt hại. Cụ thể, về trường hợp miễn trách nhiệm hoàn trả, theo quy định tại Điều 72 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì “Trường hợp người thi hành công vụ gây thiệt hại chết thì quyết định hoàn trả chấm dứt hiệu lực tại thời điểm người đó chết”. Quy định này thể hiện tính nhân văn của pháp luật.
Do đó, để đảm bảo tính công bằng giữa những người thi hành công vụ khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành theo cơ chế bảo đảm tài chính và cơ chế bồi thường nhà nước thì cần sửa đổi khoản 2 Điều 13 Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC với trường hợp người thi hành công vụ chết sau khi có Quyết định hoàn trả (dù có tài sản thừa kế hay không) thì trách nhiệm hoàn trả của người đó cũng chấm dứt. Và việc ra quyết định miễn thực hiện trách nhiệm hoàn trả trong trường hợp này do cơ quan phải thi hành án chủ động ban hành không cần phải căn cứ vào đơn đề nghị miễn.
Về trường hợp giảm mức hoàn trả, có thể bổ sung thêm các điều kiện để được giảm mức hoàn trả như: người thi hành công vụ đã chủ động khắc phục hậu quả, đã hoàn trả được trên 50% số tiền phải hoàn trả, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn (người thi hành công vụ gây thiệt hại là người lao động duy nhất của gia đình mà nếu phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ hoàn trả thì sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của gia đình và thuộc một trong các trường hợp: phải nuôi con chưa thành niên hoặc nuôi con thành niên bị tàn tật, không có khả năng lao động; nuôi vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; nuôi bố, mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động; bị thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, bị bệnh hiểm nghèo…).