Hiện Việt Nam có khoảng 500.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), chiếm 98% tổng số doanh nghiệp. Là khối doanh nghiệp tạo ra hơn 40% tổng sản phẩm quốc nội và hơn một triệu việc làm mỗi năm, các doanh nghiệp SMEs không chỉ đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của đất nước mà còn giúp tạo ra hơn một triệu việc làm mới mỗi năm, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng cường an sinh xã hội,…
Tuy nhiên, do khó khăn chung của nền kinh tế nên nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ rơi vào thua lỗ, dừng hoạt động hoặc phá sản.
Hình minh họa. |
Ồ ạt khai tử vì “đói” vốn
Thời gian qua, các SMEs đang gặp rất nhiều khó khăn do phải chịu những tổn thương của thị trường cũng như các vấn đề vĩ mô của nền kinh tế, đặc biệt là các chính sách tín dụng. Đa phần rào cản khiến những doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động đều nằm ở vấn đề khó khăn trong tiếp cận vốn.
Bên cạnh khăn về vốn SMEs còn phải đương đầu với khá nhiều vấn đề trong bối cảnh kinh tế khó khăn như: giải quyết đầu ra cho sản phẩm, tìm kiếm thị trường mới…. Đặc biệt, hệ quả của việc thiếu vốn khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất kinh doanh, kim ngạch xuất khẩu giảm trong khi nhiều chi phí phát sinh khiến các SMEs phải ngụp lặn trong những khó khăn chồng chất.
Báo cáo của Cục thống kê, mỗi năm cả nước có hơn 670 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập mới trong cả nước. Trong đó có tới gần 202 ngàn doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động. Năm 2013, tuy tình hình có cải thiện hơn, nhưng về cơ bản nền kinh tế đang đối diện với 4 thách thức như nguy cơ tái lạm phát cao kèm theo sự trì trệ của thị trường sẽ làm cho tình hình khó khăn thêm.
Mặc dù CPI 6 tháng đầu năm 2013 chỉ tăng 2,40% , tình hình nợ xấu chưa được cải thiện nên dòng tín dụng vẫn bị tắt nghẽn, nền kinh tế không hấp thụ được vốn. Tình trạng thừa tiền thiếu vốn còn kéo dài, khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp vẫn còn khó khăn, nhất là khối DN SMEs. Theo Hiệp hội SME Việt Nam, dù Nhà nước đã có nhiều giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng cho SME. Tuy nhiên, thực tế doanh nghiệp SME vẫn gặp nhiều khó khăn về vốn.
Doanh nghiệp SME đóng góp rất lớn cho nền kinh tế, nên cần được sự hỗ trợ để việc kinh doanh dễ dàng hơn. Để SME giảm bớt khó khăn về nguồn vốn đầu tư cần có tổ chức tín dụng cho khu vực kinh doanh này, đẩy mạnh hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng để ngân hàng có thể yên tâm cho SME vay.
Một nghịch lý đang diễn ra là, trong khi những doanh nghiệp lớn, có tiềm lực mạnh ngân hàng muốn cho vay thì họ không vay, doanh nghiệp SME muốn vay tiền lại không đáp ứng đủ điều kiện của ngân hàng. Doanh nghiệp nhỏ rất khó tiếp cận vốn vì ngân hàng luôn chọn mặt gửi tiền, đòi hỏi nhiều thủ tục hồ sơ, thời gian thẩm định kéo dài… trong khi nhu cầu về vốn là cấp bách.
Nhiều ngân hàng công bố mức lãi suất hỗ trợ rất thấp nhưng khi thẩm định xong thường cho vay với mức lãi suất cao hơn, ông Trần Đăng Khoa, Giám đốc một công ty xây dựng tại quận 10, TP.HCM phân trần. Theo TS Cao Sĩ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ, vấn đề đặt ra hiện nay là phải hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi hoạt động sản xuất, qua đó nâng tổng cầu, cải thiện sức mua.
Khơi thông dòng tiền
Để phục hồi tăng trưởng kinh tế và giảm tỉ lệ thất nghiệp, nút thắt cần giải quyết nằm ở khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây là mô hình kinh tế năng động nhất, có hiệu quả kinh tế cao và là đầu tàu trong việc tạo ra việc làm cho người lao động. Vừa qua, Chính phủ đã ban hành và chỉ đạo rất quyết liệt việc thực hiện nhiều giải pháp, chính sách để gỡ khó cho doanh nghiệp, trong đó chủ yếu tập trung giãn, giảm thuế và giảm lãi suất vay vốn ngân hàng.
Các giải pháp này đã phần nào chia sẻ khó khăn và hỗ trợ DN nói chung và SMEs nói riêng giữ ổn định sản xuất. Song vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp và cũng là khó khăn lớn nhất hiện nay là thị trường tiêu thụ sản phẩm, tỷ lệ hàng tồn kho cao thì vẫn chưa giải quyết, tháo gỡ được nhiều.
Thị trường trong nước từ đầu năm đến nay vẫn trầm lắng do sức mua trong nước giảm sút khá nghiêm trọng. Nếu không có chính sách hỗ trợ SMEs giải quyết hàng tồn kho thỏa đáng thì nhiều DN sẽ bế tắc, thậm chí giải thể, phá sản. Theo đó sẽ ảnh hưởng đến việc làm, đời sống của người lao động.
Theo nhiều doanh nghiệp, việc giảm lãi suất không phát huy được nhiều tác dụng vì chỉ đáp ứng được cho một bộ phận DN có “sức khỏe” tốt, trong khi đó lại không mấy tác dụng đối với phần đông các DN mà tình trạng tài chính không còn đủ chuẩn, hoặc không còn tài sản bảo đảm theo yêu cầu từ phía ngân hàng.
Các SMEs chưa thoát được nợ cũ để vay nguồn vốn mới. Gia hạn nợ chỉ là giải pháp tạm thời để DN quên đi khó khăn chứ không thể khiến DN khỏe lên. Thực tế nhiều DN không còn mặn mà đi vay dù mặt bằng lãi suất cho vay của ngân hàng đã giảm xuống 10%/năm - 11%/năm. Dù đã giảm mạnh lãi suất cho vay với mức thấp nhất 7,5%/năm - 8%/năm, hiện các ngân hàng, quỹ tín dụng vẫn không đẩy được vốn tới doanh nghiệp.
Dưới góc nhìn của chuyên gia kinh tế, TS. Đinh Thế Hiển nhận định về tình hình kinh tế cuối năm 2013 và những cơ hội dành cho doanh nghiệp SMEs: Tỷ lệ ở nhóm ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ khá tốt trong khi nhóm ngành xây dựng – bất động sản và thuỷ sản lại suy giảm trong các năm gần đây khiến cho các công ty nhóm ngành này gặp nhiều khó khăn khi vốn vay NH bị thu hẹp và lãi suất tăng cao.
Nhằm tránh tình trạng tín dụng trong ngân hàng dồi dào nhưng doanh nghiệp lại khó tiếp cận được vốn vay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh TP HCM đã triển khai nhiều chương trình kết nối cho vay vốn tại địa phương. Tính đến cuối tháng 6/2013, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP HCM đã tổ chức kết nối tại 10 quận, huyện trên địa bàn thành phố với tổng mức vốn ký kết là 5.296 tỉ đồng.
Trong đó, tổ chức kết nối cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh là trên 4 nghìn tỉ đồng. Số còn lại là nguồn vốn giành cho các doanh nghiệp tham gia trong chương trình bình ổn giá trên thị trường. Hiện nay dư nợ của 5 nhóm cho vay với mức lãi suất ưu đãi trên địa bàn TP HCM đã đạt 117 nghìn tỉ đồng, tăng 37% so với cùng kỳ 2012.
Liên quan đến việc hỗ trợ nguồn vốn cho các DN, ông Đặng Bảo Khánh – Tổng Giám đốc Ngân hàng SeABank cho biết, hiện ngân hàng này đang có cung cấp gói tín dụng ngắn hạn và dài hạn, trong đó cũng còn khoảng 1800 tỷ đồng, lãi suất 6% dành cho DN vừa và nhỏ kinh doanh lành mạnh, có lịch sử kinh doanh tốt. Và thêm chương trình lãi suất 9,9%, được tài trợ lãi suất cùng với ngân hàng nhà nước (3 tháng).
Theo các chuyên gia, đối với một DN, muốn phát triển bền vững thì phải có cả yếu tố nguồn lực, trình độ công nghệ, khả năng tiếp cận thông tin thị trường, hiểu biết pháp lý. Trong khi đó, nguồn lực hỗ trợ của Chính phủ là hữu hạn, vì vậy, phải chọn lĩnh vực để hỗ trợ cho DN cả về vốn lẫn chính sách thì những DN gặp cạn mới đủ sức tái sinh.
Bảo Hân – Đặng Chung