Tranh chấp thương mại: Vì sao nên chọn hòa giải?

(PLO) - Hiện nay, tình trạng quá tải trong giải quyết tranh chấp thương mại là vấn đề bức xúc của doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. Bởi vậy, trong các phương thức giải quyết ngoài tòa án thì hòa giải thương mại là phương thức rất đáng quan tâm, lựa chọn.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Đã có dấu mốc quan trọng về hành lang pháp lý

Một phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển, chính là hòa giải thương mại. Cùng với thương lượng và trọng tài, hòa giải được coi là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thay thế (ADR) và rất được các doanh nhân ưa chuộng do những ưu điểm vượt trội so với tố tụng tòa án.

Luật sư Vũ Ánh Dương, Phó Chủ tịch Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam phân tích, sở dĩ hòa giải thương mại là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến hiện nay vì thủ tục đơn giản, linh hoạt, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên đương sự. Các doanh nghiệp (DN) có cơ hội lựa chọn một quy trình phù hợp, tránh các thủ tục pháp lý phức tạp. Ngoài ra, khi tham gia hòa giải, với tinh thần thiện chí và hợp tác, các DN cũng dễ đạt được thỏa thuận một cách nhanh chóng.

Một ưu điểm lớn nữa của phương thức này là các DN tự quyết định việc giải quyết tranh chấp và luôn biết trước kết quả. Trong quá trình hòa giải, với sự hỗ trợ của hòa giải viên, các bên sẽ có cơ hội được đưa ra quyết định của mình về phương án giải quyết tranh chấp. Đây là ưu thế nổi trội của phương thức hòa giải so với các phương thức tố tụng khác, vốn khó lường trước được kết quả. Mặt khác, hòa giải mang tính thân thiện rất cao. Thông qua hòa giải, các DN có điều kiện thể hiện thiện chí, hiểu và thông cảm nhau hơn, giúp họ tiếp tục duy trì, phát triển quan hệ kinh doanh, đối tác.

Quan trọng hơn, hòa giải là một quá trình không công khai. Đây là tiêu chí được nhiều DN quan tâm. Với việc giải quyết thông qua hòa giải, tên của các bên tranh chấp không bị tiết lộ ra công chúng, tránh nguy cơ ảnh hưởng đến uy tín kinh doanh của DN. Thông tin liên quan đến hòa giải cũng được giữ bí mật, trừ khi có quy định khác của pháp luật.

Bên cạnh tính ưu việt của hòa giải thương mại, ông Vũ Ánh Dương cũng cho biết, hiện Việt Nam đã có hành lang pháp lý quan trọng, góp phần khuyến khích giải quyết tranh chấp hòa giải, nâng cao hiệu quả của việc sử dụng hòa giải, đặc biệt là lựa chọn phương thức hòa giải.

“Việc ban hành Nghị định hòa giải thương mại và Bộ luật tố tụng Dân sự 2015 đã thể chế hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách ngành tư pháp đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó” – ông Dương nói.

Theo bà Nina Mocheva, Chuyên gia Tài chính cấp cao, Thị trường – Tài chính, nhóm Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đã có bước đi quan trọng trong việc thông qua khuôn khổ pháp lý mới về giải quyết tranh chấp thương mại bằng cả hòa giải và trọng tài. “Chúng ta có cơ chế khá tiến bộ, có cả 1 Chương về vấn đề thi hành, có Luật về trọng tài thương mại và Nghị định về hòa giải thương mại. Đây là bước tiến quan trọng và tiếp theo sẽ là việc đưa vào thực thi trong thực tiễn...Và để sử dụng các quá trình hòa giải thương mại này doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ của các trọng tài viên có năng lực. Điều này đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh vực hòa giải thương mại” – bà Nina Mocheva nhận định.

Cùng với đó, bà Nina Mocheva cũng lưu ý, kinh nghiệm của nhóm ngân hàng thế giới về hòa giải thương mại ở nhiều quốc gia cũng cho thấy, khi bắt đầu áp dụng hòa giải thương mại cộng đồng những người làm luật có thể miễn cưỡng, tuy nhiên cần thời gian để vượt qua sự ngần ngại và do dự này. “Việt Nam đang ở giai đoạn “trứng nước”, do đó quan trọng là phải xây dựng được uy tín, khẳng định vị thế”.

Tòa án sẽ “giúp” cho hòa giải

Cùng với những lợi ích mà hòa giải thương mại đem lại, cách đây không lâu, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại, lần đầu tiên quy định cụ thể, hướng dẫn về hòa giải viên, tổ chức hòa giải chuyên nghiệp, trình tự, thủ tục hòa giải. Theo Nghị định, các bên có quyền lựa chọn Quy tắc hòa giải của tổ chức hòa giải thương mại để tiến hành hòa giải hoặc tự thỏa thuận trình tự, thủ tục hòa giải. 

Trường hợp các bên không có thỏa thuận về trình tự, thủ tục hòa giải thì hòa giải viên thương mại tiến hành hòa giải theo trình tự, thủ tục mà hòa giải viên thương mại thấy phù hợp với tình tiết vụ việc, nguyện vọng của các bên và được các bên chấp thuận. Tranh chấp có thể do một hoặc nhiều hòa giải viên thương mại tiến hành theo thỏa thuận của các bên. Tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình hòa giải, hòa giải viên thương mại đều có quyền đưa ra đề xuất nhằm giải quyết tranh chấp. Địa điểm, thời gian hòa giải được thực hiện theo thỏa thuận của các bên hoặc theo lựa chọn của hòa giải viên thương mại trong trường hợp các bên không có thỏa thuận.

Tuy nhiên, có ý kiến băn khoăn nếu hòa giải có nhiều lợi ích như vậy thì tại sao bây giờ mới được ưa chuộng. Băn khoăn này cũng có cơ sở bởi theo lý giải của ông Nguyễn Đình Tiến - Phó chánh Toà Kinh tế, TAND TP Hà Nội, trước khi có Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hoà giải thương mại, công tác hoà giải cũng đã được thực hiện trong hệ thống toà án trong quá trình giải quyết các tranh chấp thương mại, tuy nhiên khá đơn giản. 

Ông Tiến dẫn chứng: “Hoạt động hoà giải còn thực hiện khá đơn giản, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của các thẩm phán. Ví dụ như thẩm phán phải về tận địa phương để tiến hành hoà giải tranh chấp cho các doanh nghiệp tại đó. Còn tại toà án kinh tế, chúng tôi cũng luôn khuyến khích động viên các bên tự thương lượng hoà giải để giải quyết mâu thuẫn. Thậm chí, ngay kể cả sau khi có bản án sơ thẩm, chúng tôi vẫn tiếp tục động viên các bên hoà giải nốt những mâu thuẫn còn lại nếu có thể, nhằm đạt được kết quả hoà giải thành tại phiên phúc thẩm”.

Trong những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 với các vấn đề liên quan tới hoà giải từ Điều 205 tới Điều 213, Phó Chánh Tòa Kinh tế Nguyễn Đình Tiến  cho biết, về thủ tục tiến hành hoà giải được nhận định là còn gây phát sinh nhiều chi phí và thời gian cho doanh nghiệp. “Có thể thấy rằng thủ tục hoà giải trong tố tụng toà án tuy được đánh giá là khá hiệu quả, nhưng thủ tục lại quá chặt chẽ và tương đối rườm rà, thời gian lâu. Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận với việc quá tải của hệ thống toà án thì việc thời gian xử lý lâu là không tránh được” - ông Tiến nói.

Đánh giá về Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại, ông Tiến cho biết, các hoạt động hòa giải ngoài tố tụng được quy định trong Nghị định 22/2017/NĐ-CP được đánh giá là linh hoạt hơn và ngắn gọn hơn. “Chúng tôi với tư cách là Tòa án hi vọng thời gian tới sẽ có những vụ hòa giải thành đầu tiên theo Nghị định 22/2017/NĐ-CP mang đến Tòa án xin công nhận để chúng tôi thực hiện đúng theo quy định tại Chương 33 Luật Tố tụng Dân sự 2015”, ông Tiến nhấn mạnh.

“Trong năm 2017, đã có 19 vụ tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải, theo đó, Hội đồng Trọng tài ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành giữa các bên và được các bên đánh giá cao. Đáng lưu ý là các bên tranh chấp đã tự nguyện thi hành kết quả hòa giải”, Luật sư Vũ Ánh Dương, Phó Chủ tịch Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.

Đọc thêm