Trước thềm EVFTA: Ngành Da giày thuận lợi vào thị trường châu Âu

(PLO) - Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) dự kiến có hiệu lực vào đầu năm 2018 được đánh giá là cơ hội lớn để ngành Da giày Việt Nam vững chân tại thị trường châu Âu.
Hoạt động của doanh nghiệp da giày có khởi sắc hơn năm 2016
Hoạt động của doanh nghiệp da giày có khởi sắc hơn năm 2016

Bạn hàng lớn và lâu đời

Là một trong những ngành công nghiệp có lợi thế xuất khẩu, ngành công nghiệp Da giày Việt Nam có đóng góp đáng kể cho kinh tế đất nước. Từ chỗ chỉ sản xuất phục vụ tiêu dùng nội địa, năm 1992, ngành Da giày bắt đầu xuất khẩu được 5 triệu USD và liên tục tăng trưởng với tốc độ cao từ năm 1993 đến nay.

Theo thống kê của EU, từ năm 1996, Việt Nam đã đứng vị trí thứ 3 trong số các nước xuất khẩu giày dép nhiều nhất vào EU. Gần đây, Việt Nam đã vươn lên vị trí nhà xuất khẩu lớn thứ hai sau Trung Quốc. Trong hơn 12 tỷ USD giày dép xuất khẩu năm 2015 thì riêng xuất khẩu sang EU đạt 4,4 tỷ USD tăng 20%, chiếm hơn 30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam vào EU chủ yếu tập trung ở mặt hàng giày da chất lượng cao và giày thể thao cho các thương hiệu của Mỹ và EU. Trong đó, năm 2015 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Bỉ lớn nhất, đạt trên 720 triệu USD.

Có thể thấy EU là một người bạn hàng lớn và lâu đời của Việt Nam trong lĩnh vực da giày. Tuy nhiên, để đạt được kết quả này, Việt Nam cũng đã phải trải qua nhiều bước thăng trầm. Vào những năm 2005, 2006, cả ngành Da giày rơi vào thế lao đao khi tháng 10/2006, Ủy ban Châu Âu (EC) ban hành quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm giày mũ da nhập khẩu từ Việt Nam. Mức thuế áp dụng là 10%. Thêm nữa, trong một thời kỳ dài phần lớn nguyên phụ liệu của doanh nghiệp da giày Việt Nam đều phải nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu sang EU. Do vậy, tuy giá trị kim ngạch xuất khẩu rất cao nhưng hiệu quả kinh tế mang lại cho doanh nghiệp da giày thấp, giá trị gia tăng chỉ chiếm 25%.

Chưa kể về hệ thống phân phối, có đến hơn 60% sản phẩm da giày Việt Nam là gia công cho các đối tác nước ngoài dưới hình thức làm theo đơn đặt hàng, với giá nhân công rẻ nên các doanh nghiệp Việt Nam chỉ giao hàng đến các nhà buôn mà không xuất khẩu trực tiếp đến các nhà phân phối chính. Đây là điểm yếu của ngành Da giày Việt Nam vì đa phần phụ thuộc vào hệ thống phân phối chính và đa phần phụ thuộc vào hệ thống phân phối kinh doanh nước ngoài, điều đó đồng nghĩa với việc bị chi phối về sản xuất.

Nhưng “khoảng lặng” giờ đã trở thành quá khứ. Ngành Da giày Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để khẳng định, củng cố và mở rộng thị phần ở thị trường EU.

EVFTA mang tới những cơ hội bền vững, rộng mở

Theo Hiệp hội Da giày và túi xách Việt Nam (LEFASO), hoạt động xuất khẩu của các DN trong ngành trong nửa đầu năm nay có nhiều khả quan so với cùng kỳ năm 2016 với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 8,8 tỷ USD, tăng 11% (trong đó xuất khẩu giày dép ước đạt 7,1 tỷ USD, tăng 12% và xuất khẩu túi – cặp ước đạt 1,7 tỷ USD, tăng 4%).

Tiếp tục xu hướng của năm 2016, khối DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang mở rộng công suất nhà máy hiện có và xây dựng các nhà máy mới tại Việt Nam, đón đầu lộ trình giảm thuế từ các hiệp định thương mại tự do (FTA). Tính trong 5 tháng đầu năm 2017, xuất khẩu của khối FDI tiếp tục tăng, chiếm tỉ trọng 81,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành, trong đó, chiếm tỉ trọng 81,2% đối với giày dép và 81,5% đối với túi xách.

Báo cáo cho biết Việt Nam đã xuất khẩu giày dép sang khoảng 100 nước trên thế giới, trong đó 72 nước có kim ngạch xuất khẩu trên 1 triệu USD. Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu giày dép lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 1.989 tỉ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ và chiếm 35,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại. 

Thị trường EU đứng thứ 2 khi đạt 1.760 triệu USD, kế đến là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tổng cộng, 5 thị trường trên chiếm 83,3% tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam và chiếm đến 87,2% tổng kim ngạch xuất khẩu vali, túi, cặp của Việt Nam.

Xuất khẩu của ngành Da giày sang các thị trường Đông Á, châu Đại Dương và Bắc Mỹ cũng tiếp tục có sự tăng trưởng tốt. Thị trường Tây Nam Á, Trung Đông, Nam Mỹ, châu Phi… nhiều tiềm năng nhưng cũng nhiều khó khăn về phương thức thanh toán, chi phí vận tải, thiếu thông tin thị trường… Đây là những rào cản cần được tháo gỡ để DN có thể xúc  tiến xuất khẩu.

Theo dự báo của các chuyên gia quốc tế, kinh tế thế giới năm 2017 sẽ tốt hơn năm 2016 và Trung Quốc tiếp tục chủ trương giảm ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực dệt may và da giày để tập trung cho các ngành công nghệ cao nên các đơn hàng gia công giày dép, túi xách sẽ tiếp tục xu hướng chuyển dịch từ Trung Quốc sang Việt Nam, chờ cơ hội EVFTA (FTA Việt Nam – EU) dự kiến có hiệu lực trong năm 2018. Trên cơ sở đó, xuất khẩu da giày trong những tháng cuối năm 2017 sẽ tiếp tục xu hướng tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu toàn ngành trong cả năm 2017 dự kiến đạt 17,8 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2016.

Mặc dù cơ hội là rất lớn, song ngành Da giày Việt Nam cũng đang phải đối diện với những thử  thách không hề nhỏ. Khi tỷ lệ sản xuất gia công của ngành còn cao, chiếm tới 70%, khiến lợi nhuận thấp và hạn chế sự năng động của DN. Mặt khác, các rào cản về kỹ thuật áp đặt từ phía EU cùng các yêu cầu về trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường, cũng như tuân thủ các thủ tục để hưởng lợi thuế FTA cũng làm tăng chi phí cho DN.

Tiếp đến, dù da giày là một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu cao nhất của Việt Nam, nhưng “phần bánh” xuất khẩu lại tập trung hầu hết trong tay các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Ngoài ra, Lefaso cũng nhìn nhận, ngành Da giày trong nước vẫn đang có những điểm yếu cơ bản như: thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu năng lực quản trị và năng suất lao động thấp. Năng suất bình quân của lao động tại các nhà máy da giày Việt Nam hiện nay chỉ bằng 60-70% năng suất của các DN FDI đang hoạt động tại Việt Nam.

Với mục tiêu đến năm 2030, kim ngạch xuất khẩu da giày của Việt Nam sẽ đạt 54 tỷ USD, ngành Da giày Việt Nam được khuyến cáo là phải biết tận dụng tối đa mọi lợi thế của các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia, đặc biệt là EVFTA. Để làm được điều này, theo Lefaso, tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm được sản xuất bởi các DN Việt Nam phải nâng lên mức 60%, đáp ứng được điều kiện về quy tắc xuất xứ trong các FTA, giúp giảm các chi phí về logistics và nâng cao sự chủ động của DN Việt. Theo đó, các DN phải chủ động về nguồn nguyên liệu, có đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng, đáp ứng được các vấn đề về môi trường, lao động, nâng cao tự động hóa trong sản xuất và có những sản xuất đặc trưng. Hơn nữa, cần chủ động trong chuỗi liên kết nội địa, phát triển thị trường trong nước.

Đọc thêm