Cuộc hải trình sinh tử
Chiều cuối tuần một ngày cuối tháng tư, tôi đến nhà cựu binh Trần Quốc Thống ở đường Đô Lương phường 11 Vũng Tàu. 41 năm trước, ông Thống lúc đó đeo quân hàm Trung tá, chỉ huy Trung đoàn 131 Công binh Hải quân cầm quân vượt sóng ra Trường Sa dựng nhà xây đảo Trường Sa Lớn - hòn đảo được coi là “thủ phủ” đầu tiên được xây dựng giữa biển Đông, mà chính ông là người chỉ huy chuyển đá, đắp nên “loa thành” ấy.
“Sau giải phóng Trường Sa năm 1975, nhiệm vụ xây dựng đảo Trường Sa được đặt lên hàng đầu trong chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Hải quân. Điều đó có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ hướng biển, vừa khẳng định với thế giới rằng, quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam. Do vậy, đưa lực lượng khẩn cấp triển khai xây đảo được coi là nhiệm vụ cấp thiết lúc đó” - ông Thống nhớ lại
Chuyện xây đảo Trường Sa được cựu binh Thống kể lại trong niềm tự hào: “Mặc dù đi Trường Sa ngày ấy đồng nghĩa với sinh tử, có cái gì ghê gớm lắm, song lúc đó lính trẻ không chùn bước. Biết là phải đối mặt với nhiều thử thách, có thể phải hy sinh tính mạng, nhưng anh em luôn xác định tốt nhiệm vụ và sẵn sàng”.
Sau 8 tháng kể từ ngày đất nước thống nhất, trước yêu cầu khách quan về nhà ở và hệ thống phòng thủ bảo vệ đảo, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân tiến hành khảo sát xây dựng các nhà kiên cố trên quần đảo Trường Sa. Việc xây dựng phải bảo đảm 2 yếu tố cơ bản: Phải là nơi phòng thủ kiên cố có tầm quan sát rộng, tiện cho cơ động sẵn sàng chiến đấu và tránh nắng nóng; vừa tránh được ẩm thấp nước biển mặn, đón được hướng gió, bảo đảm mọi sinh hoạt công tác, huấn luyện, vui chơi của bộ đội.
Đảo chìm Đá Lát - ngôi nhà mang dáng hình Tổ quốc giữa biển trời. |
Nhận nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân xác định: “Dù khó khăn đến mấy, dù phải hy sinh đến tính mạng cũng phải xây dựng bằng được nhà kiên cố lâu bền trên các cụm đảo Trường Sa, đó là mệnh lệnh từ trái tim người lính đối với Tổ quốc nơi tuyến đầu”.
Kế hoạch từ khâu vận chuyển đá, thép, vật liệu từ đất liền ra đảo được bàn thảo khẩn trương và khoa học. Hàng ngàn khối đá, xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng được chuyển xuống tàu, vượt sóng gió ra Trường Sa. Chuyến tàu đầu tiên mang tên Đại Khánh do Đại úy Lê Nhật Cát - nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 83 chỉ huy 70 cán bộ, chiến sĩ trẻ hành trình ra Trường Sa Lớn vào cuối tháng 4/1976.
Cuộc hải trình trên con tàu Đại Khánh có trọng tải 75 tấn vượt sóng ra Trường Sa từ cảng T thuộc Cam Ranh - Phú Khánh (nay là Khánh Hòa) lúc chiều tối. Sau gần 4 ngày lênh đênh trên biển đã đến đảo Trường Sa Lớn. Bốn ngày vật lộn với sóng gió, 80% cán bộ, chiến sĩ bị say sóng, nhiều chiến sĩ trẻ bỏ bữa. Hầu hết các chiến sĩ chưa biết Trường Sa là gì, chỉ hình dung trong đầu đó là một hòn đảo xa xôi và thiêng liêng.
“Ngày đó chưa có tàu hiện đại như bây giờ. Tất cả áo phao, phương tiện bảo đảm trên tàu cũng rất thô sơ. Đất nước mới giải phóng, đau thương chồng chất, đi Trường Sa lúc đó khác gì sinh tử. Nhưng vì nhiệm vụ, vì Trường Sa chúng tôi lên đường không hề do dự”, ông Thống nhớ lại
Mưu sinh trên sỏi cát
Trường Sa Lớn ngày đầu giải phóng toàn là đất đá và thuốc súng. Ban ngày nhiệt độ nóng đến 38 độ, cộng với gió Tây Nam thổi mạnh, hơi nước mặn từ biển bốc lên, càng làm cho khí hậu thêm khắc nghiệt. Công việc đầu tiên của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân là thiết kế nơi ăn ở, nhanh chóng bắt tay vào xây đảo. Một bài toán vô cùng khó khăn đặt ra là làm gì để có nước ngọt, trong khi lượng nước ngọt do tàu Đại Khánh đựng trong can nhựa vơi dần, trời thì không mưa, nước từ giếng nhiễm mặn không sao ăn được.
Thời điểm đó, ngoài Trường Sa Lớn và Song Tử Tây không có đảo nào có nước ngọt. Hai đảo này có bể chứa nước của lính Việt Nam Cộng hòa để lại, mỗi bể chừng 6 khối, nhưng cũng không dùng được vì nhiễm thuốc súng, phân và lông chim. Trước tình thế ấy, để sinh tồn và xây đảo, chỉ bằng một cách là tiết kiệm tối đa cho đến khi có nguồn nước viện trợ từ đất liền. Kế hoạch tiết kiệm là mỗi người 1 lít/ngày cho cả đánh răng, rửa mặt.
Một góc đảo Trường Sa Lớn hôm nay nhìn từ biển. |
Ngoài tiêu chuẩn mỗi người một cà-mèn/ngày, chiều chiều các chiến sĩ lội xuống biển tắm, người nọ kỳ lưng cho người kia, tắm xong anh em lên dội lại nước lợ từ giếng. Do tắm nước biển lâu ngày, nên da người nào cũng xù xì như lớp sừng bám, tất cả cán bộ, chiến sĩ người nào cũng đen cháy, khi cười chỉ nhìn thấy răng và mắt. Việc ăn uống vô cùng khổ sở. Có bữa ăn, cả đại đội chỉ vẻn vẹn 4 hộp thịt của Liên Xô, đổ thêm nước rồi nấu sôi, chan cơm.
Anh em thèm một bữa rau xanh cháy cổ nhưng lấy đâu ra giữa Trường Sa chỉ có nắng gió, cát và sỏi đá ấy. Ông Thống nhớ lại: “Vào thời điểm xây những ngôi nhà đầu tiên trên đảo vô cùng khó khăn. Trên trời nắng cháy da, mặt đảo nóng hừng hực do cát bốc lên, anh em phải dùng bạt che tạm làm nhà ở. Mùa gió chướng, cả đảo mù mịt cát bụi càng làm cho khí hậu khắc nghiệt, càng nhớ đất liền hơn. Khó khăn thì không thể nói hết được, nhưng điều quan trọng là cán bộ, chiến sĩ luôn vững vàng, yên tâm tư tưởng và quyết tâm xây đảo”.
Nước mắt rơi trong niềm vui giữa biển
Dưới cái nắng như thiêu như đốt, các chiến sĩ quần đùi, áo lót ngày đêm vận chuyển vật liệu từ tàu vào đảo trên đá san hô. Trung bình mỗi chiến sĩ vác 200 hòn đá mỗi ngày. Ban ngày vận chuyển vật liệu, ban đêm đóng cọc dựng nhà, che bạt ở tạm, cốt để bộ đội có chỗ ăn cơm và ngủ lấy lại sức. Nắng gió rát mặt, các chiến sĩ như những con ong chăm chỉ, người vác đá, người trộn hồ, tung gạch. Sau gần một tháng thi công, ngôi nhà đầu tiên trên đảo Trường Sa Lớn hoàn thành cuối tháng 5/1976.
Trong tâm can của người lính “già” đã kinh qua hàng trăm lần xây đảo, có lẽ ông Thống không bao giờ quên được giây phút ông và đồng đội ôm nhau khóc giữa biển khơi. Đó là ngày khánh thành ngôi nhà đầu tiên trên đảo Trường Sa Lớn. “41 năm rồi, sao quên được cái buổi sáng hôm ấy. Nhìn ngôi nhà sừng sững giữa đại dương, chúng tôi bật khóc. Khóc vì sung sướng. Khóc vì nghĩ lại những ngày chạy đua với sóng gió quá khổ. Chúng tôi ôm nhau reo hò và hi vọng một ngày nào đó trở lại đất liền thăm gia đình”, ông Thống nhớ lại
Trường Sa Lớn là đảo nổi đầu tiên được xây dựng. Đây là đảo nằm trong cụm T1, tức là đảo thuộc Sở Chỉ huy trung tâm. Nhà xây dựng trên đảo này là loại nhà “sê-ri” thế hệ đầu tiên kết cấu nửa chìm nửa nổi, chiều cao 2,8 mét, trong đó 1,5 mét ẩn âm trong lòng đảo, lòng nhà rộng 4,5 mét theo hình lục giác, có các cửa sổ, hứng gió 4 phía. Cùng thời điểm này, tại các đảo Song Tử Tây, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca cũng được từng bước xây dựng. Mỗi một công trình gắn liền với mồ hôi, nước mắt và xương máu của lính Công binh lúc đó.
Trường Sa ngày mới
Sau 41 năm giải phóng xây dựng và trưởng thành, Trường Sa với 33 đảo, điểm đảo/21 điểm đóng quân trở thành một quần đảo có đầy đủ lịch sử và pháp lý của một đất nước có chủ quyền. Đây là dải đất thiêng của Tổ quốc Việt Nam từ hướng biển. Mỗi đảo nhỏ là một pháo đài canh chủ quyền đất nước, chủ nhân của những pháo đài ấy là quân dân huyện đảo Trường Sa tỉnh Khánh Hòa.
Nếu 41 năm trước, Trường Sa là khô cằn sỏi đá, đời sống quân dân huyện đảo gặp nhiều khó khăn, thì nay Trường Sa là thị tứ sầm uất giữa biển khơi, đời sống của quân dân ngày một thay da đổi thịt. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự đùm bọc của nhân dân, bắt đầu từ năm 2009, Trường Sa đã khoác lên mình màu áo mới. 100% các đảo nổi, đảo chìm có điện thắp sáng bằng pin năng lượng mặt trời, phủ sóng Đài Truyền hình Việt Nam và điện thoại di động không dây. Ngoài nhiệm vụ canh chủ quyền Tổ quốc, mỗi đảo còn là điểm tựa cho bà con ngư dân từ đất liền ra đánh bắt thủy hải sản trên vùng biển này.
Hàng năm có hơn 20 đoàn công tác, khách, người thân của cán bộ, chiến sĩ từ đất liền ra thăm đảo. Sau cuộc hành trình “ba cùng” ngắn ngủi với lính đảo, họ trở về đất liền trong niềm cảm phục và cũng tự hào về Trường Sa và những người lính kiên trung nơi “chân trời” Tổ quốc.