“Tôi muốn nhờ cậu đưa vào rừng tìm chỗ cây mưng ba thân...”. “Bác Quảng vào rừng tìm đánh cây mưng như người ta là tôi báo kiểm lâm đấy”. “Tôi không tìm cây để đánh. Tôi tìm người bạn đã mất tích ở khu đấy”.
Hai người cứ xuyên rừng mà đi. Lúc mặt trời rọi thẳng trên đầu thì chạm suối Hòn cuội. Nước từ trong núi đổ ra. Lòng suối, toàn đá cuội đủ màu: nâu, trắng, sữa, hanh vàng... lạo xạo dưới chân. Đi tiếp, hai người tới chỗ cây mưng già ba thân đổ bóng vắt ngang suối.
|
Cây mưng đang buông hoa. Từng chùm nụ chúm chím như mành mành rủ xuống suối, hoa đỏ li ti trôi dập dềnh trên mặt nước. Mắt ông Quảng bỗng hoe đỏ. Một đường ong đang bay lên. Bám vào một dây rừng to bằng cổ tay, Hồ Leo đu leo tới chỗ tổ ong. Châm lửa vào miếng bùi nhùi đem theo, Leo giơ khua lên hướng tổ ong.
Hồ Leo bóc một mảnh mật ong đưa mời ông Quảng: “Bác tìm gì?”. “Tôi... muốn tìm người”. Mùa mưa trước, một ông khách thuê Hồ Leo dẫn vào rừng. Tới đúng gốc mưng ba thân thì ông ta dừng lại, bảo Leo đào thuê trả công. Nhưng cây là của rừng, Leo không làm chuyện đó được. Leo khuyên ông ta từ bỏ ý định ấy đi rồi đu dây đi lấy tổ ong. Ông ấy bèn gọi người ngoài bản vào đào thuê. Mới kịp chặt vài nhát dao vào cái rễ mưng to nhất thì rừng đổ mưa sầm sập, nước lũ dâng lên đến ngang thân cây mưng. Đám người may mà bám chặt vào gốc mưng nên thoát chết.
Tiếng chim đập cánh dáo dác trên vòm xanh. Gió thổi tới mỗi lúc một mạnh. Sắp có mưa lớn. Hồ Leo kéo tay ông Quảng chạy mưa. Tới một lối mòn thì gặp hai tảng đá to chắn ngang, Leo vén đám lau lách, cúi người chui qua giữa hai khe đá. Ông Quảng theo sau. Mưa bắt đầu trút xuống. Cố lết theo chân Leo chạy đoạn nữa tới một cửa hang đá sâu hun hút. Ông Quảng ngồi bệt xuống, thở dốc, thái dương giật liên hồi. Ông Quảng vội tìm lọ thuốc.
*
* *
Một tiếng nổ vang trời, cả khoảng rừng rung chuyển. Chiếc túi dết màu ghi như từ trên trời rơi xuống bờ suối. Đạn vẫn nhằm hướng cây mưng, nã. Hoa mưng rơi như lớp máu loang dưới mặt suối. Gã nép mình vào sau những bụi rễ mưng, mắt vẫn không rời chiếc túi. Gã nhận ra chiếc túi của người lính cộng hòa. Gã cũng có một cái nhưng đã bị mất ngay sau khi máy bay bị bắn rơi. Gã khấp khởi mừng, có thể gã sẽ gặp được đồng đội sống sót còn lẩn khuất trong rừng như gã hiện nay. Khi tiếng súng tạm lắng xuống, tiếng bước chân từ trong bụi rậm bước ra. Dáng người lòng khòng, khuôn mặt lấm lem bùn đất, nốt ruồi to như hạt đỗ trên trán và đôi mắt ốc nhồi. Thằng Toan. Cũng như gã, nó chưa chết, đang lẩn khuất trong rừng rậm mấy hôm nay. Dù lúc ở đơn vị gã và nó không ưa gì nhau, nhưng giữa rừng rú hoang vu thế này nhìn thấy nó, gã vui như gặp lại người ruột thịt. Gã cất tiếng gọi. Thằng Toan giật mình định trốn nhưng khi nghe tên mình liền đảo vội mắt tìm. Ngay lúc ấy những loạt đạn bỗng nhằm về phía hai thằng mà bắn. Một viên cày ngay xuống chỗ túi dết, hất tung cái túi xuống dòng nước đang chảy xiết. Thằng Toan nhào ra giữa luồng đạn để vớt cái túi. Đạn từ máy bay của chính bọn gã. Tiếp theo là những trái bom được tuồn ra rơi xuống ngay trên đầu chúng. Một quả bom thả xuống gần sát gốc mưng. Khói, bụi, đất, nước cuồn cuộn bốc lên, gã chỉ kịp nhìn thấy thằng Toan bị văng lên một khe đá bên suối sau cây mưng, rồi gã cũng bị một cành mưng vừa bị bom giật, quét lê đi, hất tung xuống lòng suối.
*
* *
Tỉnh dậy, gã thấy mình nằm trong hang đá. Gã cựa mình, khắp lưng như có đá đập vào. Gã đang nằm trên những viên đá cuội. Những viên đá to nhỏ xếp đan như cái chiếu. Tiếng chày giã ngô từ ngoài hang vọng vào. Tiếng muôi gỗ va lịch kịch. Một cô gái đi tới: “Em đã cứu tôi? Em là ai”. “A Liêng”. A Liêng cho gã ăn, đắp thuốc lá vào những vết thương đang loét ra trên người gã.
Một ngày mưa rừng dai dẳng, A Liêng ngồi khâu vá lại áo quần. Gã dò dẫm đi tới phía nàng. “Sao A Liêng không xuống bản sống cùng mọi người?”. A Liêng chợt tắt nụ cười.
*
* *
Mẹ A Liêng đến kì sinh nở bị đưa vào rừng ở trong một hang đá theo tục lệ. Ở trong hang đã lâu mà vẫn chưa chuyển dạ. Thức ăn để dành đã gần hết, người mẹ lo sẽ không còn gì mà ăn sau khi sinh nên vào rừng hái rau, bẻ măng, ra suối bắt tôm, bắt cá. Đang cúi xuống mò cá ở một khe đá thì bụng nổi cơn đau quặn thắt. Người mẹ bám vội vào cành cây mưng sà ra trước mặt để đánh đu với cơn vượt cạn một mình. Một cái gì ộc ra dưới háng, nước suối loang đỏ. Tưởng muốn lả đi, nhưng vừa nhìn thấy chỏm tóc đen trôi tuột xuống lòng suối, mẹ vội vàng cúi xuống vớt con lên. Đứa bé vẫn nhắm mắt, không khóc được vì tràng hoa quấn cổ. Rút vội con dao nhỏ luôn giắt sẵn bên mình, mẹ cắt dây rốn cho con, gỡ tràng hoa quấn cổ ra, đứa bé bắt đầu khóc. Quấn cho con bằng cái khăn đội đầu của mình, một tay ôm con, một tay mẹ nhặt đám nhau thai, dây rốn. Lúc đặt chúng xuống hố để chôn ngay bên bờ suối, mẹ chợt thấy trong đám đó rơi ra hai hòn cuội nhỏ, một màu trắng và một màu vàng. Mẹ đút vào túi áo, rồi bế con về hang đá. Khi người chồng lên đón vợ về thấy má trái con có vết chàm bỗng thở dài.
*
* *
Thầy mo đi qua, thấy má A Liêng có vết như con tôm luộc cứ chằm chằm nhìn. Thầy mo vừa đi về nhà thì đất trời rung chuyển bởi bom đạn của máy bay giặc rải xuống. Sau trận đó, bản bị chết hai người trẻ. Thầy mo bảo tại A Liêng là con ma rừng, bị dấu đóng trên má, càng lớn càng đem điềm dữ đến bản, trời đất sẽ còn nổi giận nếu để A Liêng sống ở đây. Bố đã cự lại thầy mo không cho A Liêng vào rừng. Bọn bạn nghe tin A Liêng là ma rừng không chơi với A Liêng nữa. Tai họa liên tiếp ập xuống. Năm A Liêng mười bốn tuổi, một trận bom khác thả trúng bản Rào Hoa làm cho năm người dính bom chết. Thầy mo kéo theo nhiều người tới nhà A Liêng đòi đánh đuổi con ma rừng không cho ở lại bản kẻo hại chết cả bản. Bố và người anh trai chặn họ lại, mẹ dắt A Liêng chạy theo lối vườn sau, trốn vào rừng sâu, tìm tới đúng cái hang đá ngay sát con suối ngày trước đã ở cữ A Liêng. A Liêng ở lại đó với hai viên ngọc suối mẹ để trong cối đá như một thứ bùa hộ mệnh.
A Liêng sống một mình, vào rừng tìm củ mài, măng, rau, ra suối bắt cá, tôm. Thỉnh thoảng, mẹ đi lên rẫy, lẻn vào rừng tiếp tế cho A Liêng. Lần cuối cùng, mẹ ngược suối vào đem cho A Liêng kim chỉ, diêm, hạt ngô và cây sắn bảo đem đi trồng thêm rẫy nữa ở trên núi làm thức ăn cho mùa đông sắp tới. Ngang chiều mẹ ra về. Gần tối, A Liêng nghe thấy tiếng gầm rú của máy bay. Bom đạn dội xuống cánh rừng mẹ vừa đi qua. Ngồi trong hang đá, A Liêng chỉ biết khóc.
Sớm hôm sau, A Liêng băng rừng tìm mẹ. Gần tối mới thấy mẹ nằm bên cây si đã bị bom đánh bật gốc. A Liêng ôm lấy mẹ khóc. Phải đợi trăng lên, A Liêng mới dám cõng mẹ về bản. Anh A Sua đi đâu mấy hôm chưa về. Bản Rào Hoa bị bom đạn cướp đi chín người, trong đó có cả thầy mo. Bố sợ họa lớn, không cho A Liêng ở nhà tang mẹ, bắt vào rừng ngay, A Liêng gạt nước mắt chạy đi. Đêm tối không rõ đường lên A Liêng phải trèo lên cây cao ngủ tránh thú dữ, sáng ra mới tìm đường trở về hang đá. Nhìn lên cối đá, A Liêng mới biết mất viên ngọc suối màu vàng.
*
* *
A Liêng dẫn gã ra suối tắm. Hơn tháng nay gã chưa được tắm nên vẫy vùng như cá gặp nước. Dưới suối, A Liêng bắt được một con cá to, giơ lên vẫy vẫy gã xuống. Trông A Liêng lúc này đẹp như bông hoa rừng, lòng gã chợt dâng lên cảm xúc khó tả. Gã cầm tay A Liêng kéo ra suối tắm: “Hai người phải yêu nhau mới đi tắm suối cùng…”. A Liêng chưa nói xong, gã đưa tay vuốt mái tóc A Liêng. Gã thấy lồng ngực mình bỗng đập thình thịch, toàn thân khẽ rung lên như có luồng điện chạy qua. Gã nhìn A Liêng đắm đuối: “Anh yêu A Liêng mà. A Liêng không yêu anh sao?”. “Nhưng A Liêng là ma rừng”. “A Liêng không phải ma rừng. A Liêng là bông hoa mưng giữa rừng”. Gã choàng tay kéo A Liêng về phía mình...
A Liêng vào rừng tìm được chùm cau và lá trầu, đang ngồi bổ cau để ăn. A Liêng vừa ăn trầu vừa ngân nga hát một điệu gì đó gã không nghe rõ. Gã vòng ôm cổ nàng. “Ngoài kia, chỉ có những bà già mới ăn trầu”. “Ở bản, ai có chồng sẽ được ăn trầu”. Mắt A Liêng long lanh, gã lại ôm lấy nàng, hôn nàng. Gã ước được sống ở đây mãi với nàng. Gã sẽ rời xa loài người, đồng bọn. Chỉ toàn có bắn giết, súng đạn, ghen ghét, lừa lọc, gầm gừ lẫn nhau ngay cả trong cùng bầy đàn. Bọn gã mới là ma quỷ chứ đâu phải là A Liêng. Trước khi máy bay bị trúng đạn rơi xuống, chính gã đã ấn nút thả bom xuống nơi đây. Lửa vẫn nhảy nhót vũ điệu vĩnh hằng, gã cụp mắt xuống. A Liêng kéo gã ra chỗ cối đá. Nàng kể đã tìm thấy chiếc túi dết mắc vào cành mưng ở cuối con suối, trong đó có ngọc suối đã bị mất. Gã hoa mắt khi nhìn thấy cái túi dết. Chính là cái túi của thằng Toan. Có thể nó đã mò vào hang, nhìn thấy ngọc suối của A Liêng tưởng một hòn vàng, liền ăn trộm. Thảo nào khi gã nhìn thấy thằng Toan, cùng lúc bom đạn dội xuống mà nó vẫn lao theo cái túi.
Gã bắt đầu biết nấu cháo ngô, biết đi lấy củi, biết thêm củi vào đống lửa để ngọn lửa luôn cháy trong hang thì A Liêng lên cơn sốt, ăn cái gì cũng nôn ra, chỉ thèm ăn sắn nướng. Gã đã theo nàng lên rẫy một lần, vẫn nhớ chỗ đó, nên gã bảo sẽ đem sắn về nướng cho A Liêng ăn.
Từ trên rẫy, gã chợt nhìn thấy thấp thoáng đuôi chiếc máy bay, cách chỗ rẫy sắn A Liêng trồng không xa. Vác gùi lên vai, gã vạch cây rừng nhằm hướng đó đi tới. Xác máy bay chỉ còn lại đuôi và một cánh. Chân gã đá phải một hộp pho mát còn nguyên nằm lẫn trong đống lá mục. Vừa cúi xuống cầm hộp thức ăn lên bỗng có tiếng quát đanh như thép: “Giơ tay lên!”. Một người lính đang giương súng nhằm về phía gã. Hoảng loạn, gã bỏ chạy. Gã biết đứng đó gã cũng chết, đồng bọn nói họ không tha một ai. Bỏ chạy, có thể chết, có thể chỉ bị thương, biết đâu may mắn còn sống. Đoàng, viên đạn đã chui vào bắp chân phải của gã. Gã khụy xuống.
*
* *
Ông Quảng tỉnh dậy. Leo đang vun đống lửa trong hang cho cháy to. Ông Quảng ngơ ngẩn nhìn cái hang đá. Ngoài kia, trời đã sang chiều. Leo cầm viên đá màu vàng trên tay: “Ngọc suối chính là đá vàng, đá bạc sinh ra từ lòng suối qua bao luân chuyển của núi rừng, trời đất. Mẹ cháu kể vì nó trông giống như thỏi vàng nên đã bị kẻ xấu lấy đi, nhưng rồi nó vẫn trở về đây”. Ông Quảng sững sờ, miệng lắp bắp: “Mẹ cháu ở hang đá này? Mẹ cháu tên là A Liêng phải không?”. Mắt Hồ Leo ngạc nhiên: “Vâng. Mẹ cháu đã sống từ nhỏ ở hang đá này, gặp bố cháu ở đây. Một hôm, bố cũng biến mất. Khi núi rừng hết tiếng súng, người bác đã lên đón mẹ con cháu về bản, nhưng mẹ cháu không về”.
Ông Quảng run rẩy cầm lấy tay Hồ Leo. Lần đó, nếu không bị bắn, rồi trao đổi tù binh, ông đã không phải lưu lạc nửa vòng trái đất, để đến tận cuối đời tìm về lại nơi đây, mới biết là mình để lại giọt máu trong rừng rậm bên suối Hòn cuội này.
Một tiếng nổ long trời, vang lên từ phía suối Hòn cuội. Thằng Leo vội chạy bổ đi, ông Quảng hấp tấp theo sau.
Bên suối Hòn cuội, ngay sát gốc cây mưng ba thân đổ bóng, một người đàn ông đã bị mìn nổ nằm thẳng dẵng, máu mê bê bết. Người khác, trẻ hơn bị thương, máu chảy đầy cánh tay, đang được một bà lão băng bó cho. Leo hốt hoảng chạy đến. “Mẹ, thằng Hồ Num có sao không?”. “Nó bị gãy tay. Còn người lạ kia chết rồi”. Hồ Leo cúi nhìn sát mặt người lạ, kêu lên: “Người này quay lại giật mìn cho cây mưng đổ để đánh về xuôi bán đây. Ông đã định thuê con dẫn đường”. Ông Quảng cúi nhìn mặt người lạ. Thấy trên trán người ấy có một nốt ruồi to như hạt đỗ đen, ông bàng hoàng. “Ông này cũng vào rừng đánh cây hả con?”. Ông Quảng nhìn vào mắt bà lão, giọng nghẹn ngào: “A Liêng... Tôi... Quảng đây...!”. Đôi mắt to đã đục như nước suối của bà lão nhìn ông Quảng, miệng vẫn móm mém nhai trầu. Ông Quảng rưng rưng khi ngửi thấy mùi trầu quyện với mùi lá sả trên mái tóc đã lốm đốm bạc.
Truyện ngắn của Nguyễn Thu Hằng